TS. Nguyễn Thị Thắm
Tóm tắt: Tỉnh Điện Biên mặc dù có địa hình bị chia cắt, giao thông đi lại khó khăn, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và có rất nhiều dân tộc thiểu số có trình độ dân trí không đồng đều nhau nhưng công cuộc xóa đói giảm nghèo của tỉnh vẫn đạt được những thành tựu lớn, làm thay đổi rõ rệt cuộc sống của nhân dân. Có được kết quả trên là nhờ có chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước; có sự tham gia xóa đói giảm nghèo của cả hệ thống chính trị và quan trọng nhất là do tự thân người dân Điện Biên có ý thức vươn lên thoát nghèo.
Từ khóa: Xóa đói giảm nghèo, Điện Biên, thực trạng.
----------------------------------------------------------------------------
Mở đầu: Điện Biên là tỉnh miền núi, biên giới phía Tây Bắc có diện tích 9.569,2 km2, có đường biên giới quốc gia dài 398,5 km. Toàn tỉnh có 9 đơn vị hành chính: 7 huyện, 1 thị xã, 1 thành phố, 112 xã phường, thị trấn (trong đó có 93 xã thuộc khu vực biên giới và khó khăn, 4 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ (47 xã 30a); dân số trên 49 vạn người. Điện Biên có địa hình hiểm trở phức tạp, được cấu tạo bởi những dãy núi chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam với độ cao biến đổi từ 200m đến hơn 1.800 mét. Địa hình có độ thấp dần từ Bắc xuống Nam và nghiêng dần từ Tây sang Đông. Ở phía Bắc và phía Tây có các dãy núi cao. Xen lẫn các dãy núi cao là các thung lũng, sông suối nhỏ hẹp và dốc được phân bố khắp nơi trên địa bàn tỉnh, trong đó đáng kể có thung lũng Mường Thanh rộng hơn 150 km2 . Do kiến tạo của địa hình, nên đã tạo thành những cao nguyên khá rộng như cao nguyên A Pa Chải - Mường Nhé, cao nguyên Tả Phìn - Tủa Chùa. Mạng lưới giao thông của các huyện, liên xã, liên thôn bản hầu hết còn là đường đất, cơ sở hạ tầng yếu kém, hệ thống cầu cống hoặc là chưa có hoặc đã xuống cấp hư hỏng cộng với việc gặp thiên tai như lũ ống, lũ quét, sạt lở đất vào mùa mưa lũ thường xuyên cho nên giao thông đi lại của người dân gặp rất nhiều khó khăn.
Điện Biên có 21 dân tộc, trong đó: dân tộc Thái chiếm 40,4%, dân tộc H‘Mông 28,8%, dân tộc Kinh 19,7%, còn lại là các dân tộc thiểu số khác. Người dân tộc thiểu số Điện Biên đã nhận được nhiều sự quan tâm của Chính phủ, các nhà tài trợ Quốc tế nhưng việc tiếp cận với các dịch vụ công, thông tin, y tế, giáo dục còn rất hạn chế nhất là các vấn đề về sinh kế cho người nghèo do trình độ dân trí vẫn còn thấp và không đồng đều. Đồng bào dân tộc thiểu số từ xưa đến nay vẫn chịu nhiều thiệt thòi hơn người Kinh ở nhiều mặt như hạn chế về nguồn lực đầu tư đất đai trồng trọt thiếu, xấu; vốn tín dụng khó khăn, các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục còn khó tiếp cận. Hạn chế đó phần nào do điều kiện địa hình, phần khác do ngôn ngữ phần do tập quán sinh sống và làm ăn của người dân tộc còn lạc hậu chưa thích ứng kịp với sự thay đổi xã hội, phần nữa do thiên tai chính vì thế mà vùng dân tộc vẫn là vùng nghèo dù có nhiều tiềm năng chưa được khai thác.
Điện Biên là một trong 13 tỉnh, thành phố trọng điểm của cả nước về tệ nạn ma túy, số người nghiện ma túy lớn. Trong 6 tháng đầu năm 2016, toàn tỉnh có 9.685 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý (chiếm tỷ lệ gần 1,8% dân số), tăng 262 người so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, Điện Biên cũng là tỉnh trọng điểm về dịch HIV/AIDS, lũy tích các trường hợp nhiễm HIV là 7.984 người, trong đó còn sống quản lý được 3.254 người; lũy tích bệnh nhân AIDS 5.640 người, trong đó còn sống 2.047 người và lũy tích tử vong 3.593 người. Trong 6 tháng đầu năm, phát hiện thêm 258 trường hợp nhiễm HIV mới, tăng 97 trường hợp so với cùng kỳ năm 2015; số mới chuyển sang giai đoạn AIDS 274 trường hợp, tăng 163 ca so với cùng kỳ năm trước.[1] Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫ tới đói nghèo ở Điện Biên.
Năm 2004 tỉnh Điện Biên được tách ra từ tỉnh Lai Châu cũ, là một tỉnh mới cơ sở hạ tầng của tỉnh còn rất thiếu và yếu. Điện Biên là một tỉnh nghèo của cả nước ( tỷ lệ hộ nghèo năm 2013 của cả nước là 7,8%, tỷ lệ hộ cận nghèo là 6,32%, ở tỉnh Điện Biên tỷ lệ hộ nghèo 38,25%, hộ cận nghèo là 6,83%),[2] các ngành sản xuất, dịch vụ còn chưa phát triển, sức cạnh tranh của hàng hóa dịch vụ của tỉnh còn thấp chủ yếu là tiêu thụ trong nội tỉnh. Cơ cấu kinh tế của tỉnh còn chưa cân đối, chênh lệch khoảng cách về kinh tế xã hội với các tỉnh khác còn rất lớn, đời sống vậtchất tinh thần của người nghèo, người dân tộc thiểu số còn rất thấp. Nguồn nhân lực có trình độ khan hiếm hoặc còn thấp không đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến nguy cơ tái nghèo cao.
- Quá trình xóa đói, giảm nghèo ở Điện Biên:
Trong giai đoạn 2001- 2005 tỉnh Điện Biên tỉnh Điện Biên đã khai thác được gần 1.200 tỷ đồng đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, vì vậy tỷ lệ hộ đói nghèo giảm bình quân 5%/ năm, đến năm 2005 còn 14,6% ( theo chuẩn mới[3] thì còn 44%), cơ bản không còn hộ đói lưu niên. GDP bình quân 263 USD/người/năm, tăng 1,8 lần so với năm 2000, đạt tốc độ tăng trưởng từ 8,9-9% năm, trong đó nông nghiệp 5,59%/năm, công nghiệp 15,15%/năm và dịch vụ 9,2%/năm.[4]
Công tác quy hoạch và định hướng phát triển kinh tế xã hội được quan tâm chú trọng hơn và bước đầu phát huy được hiệu quả, nhất là trong sản xuất nông nghiệp, tạo ra khối lượng nông sản hàng hoá ngày càng lớn hơn. Tiềm năng đất đai và nguồn nước trong tỉnh được chú trọng, khai thác sử dụng theo hướng hiệu quả và bền vững hơn. Nhiều chính sách hỗ trợ đầu tư của Nhà nước đối Điện Biên được tăng cường, tiêu biểu là các chương trình 135 giai đoạn 1, 2, chương trình 134, quyết định 186 về hỗ trợ đầu tư cho 6 tỉnh miền núi biên giới và một số Quyết định hỗ trợ có mục tiêu khác của Chính Phủ đã tạo thêm những nguồn lực quan trọng giúp tỉnh vượt qua những khó khăn trước mắt và tăng cường thu hút thêm các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Công tác bảo vệ, khoanh nuôi phục hồi và phát triển rừng liên tục tăng, góp phần tăng nhanh tỷ lệ che phủ trên địa bàn, năm 2005 tỷ lệ che phủ của rừng 39%.
Mạng lưới thương mại được phát triển mạnh mẽ với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và có mặt ở hầu khắp các địa bàn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, tiêu thụ nông sản cho nhân dân, nhất là nhân dân ở các vùng cao, vùng xa. Tốc độ tăng trưởng năm 2008 là 14%.
Năm 2010, xóa đói giảm nghèo của tỉnh Điện Biên được chỉ đạo thực hiện thông qua việc lồng ghép vốn của nhiều chương trình, dự án và nguồn vốn xã hội hóa. Đã xóa được nhà tạm cho gần 20.000 hộ nghèo; tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 32,37%, giảm 11,69% so với năm 2005 ( bình quân giảm 2,34%/ năm)[5]; số hộ phải cứu đói giáp hạt giảm dần hàng năm, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng nước được cải thiện.
Đến năm 2015, sau khi triển khai đồng bộ và tập trung đầu tư cho nguồn lực giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết của Chính phủ, chương trình hành động của Tỉnh ủy; Thực hiện có hiệu quả chương trình dự án thuộc Nghị quyết 30a và các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; Và tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cải thiện điều kiện sản xuất, nâng cao đời sống, tạo việc làm cho người lao động thì tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 32,37% năm 2010 xuống còn 28,01%, số hộ thoát nghèo 18.844 hộ[6]. GDP bình quân giai đoạn 2006-2010 và trong giai đoạn 2011-2015 tính theo phương pháp so sánh tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) bình quân tăng 9,12%/năm; GRDP bình quân đầu người năm 2015 đạt trên 1.106,6 USD, gấp 1,84 lần năm 2010 và gần bằng 50% GDP bình quân đầu người cả nước (cả nước ước đạt 2.245 USD). Tổng thu ngân sách trên địa bàn giai đoạn 2011-2015 tăng bình quân 13,37%/năm. Thu ngân sách trên địa bàn năm 2015 đạt 824,94 tỷ đồng, tăng gấp 2,8 lần so với năm 2010; tổng thu ngân sách nhà nước trên địa đạt 7.242 tỷ đồng, gấp 2,99 lần so với năm 2010. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2011-2015 là 33.615 tỷ đồng, tăng gấp 2,53 lần giai đoạn 2011-2015, vượt so với mục tiêu đề ra[7].
Bảng 1: TỔNG HỢP KẾT QUẢ TỔNG ĐIỀU TRA, RÀ SOÁT HỘ NGHÈO
TỈNH ĐIỆN BIÊN NĂM 2015
|
|
|
|
|
|
|
|
TT
|
Huyện, thị xã, thành phố
|
Tổng số hộ dân cư
|
Hộ nghèo
|
Hộ cận nghèo
|
Ghi chú
|
|
|
Số hộ nghèo
|
Tỷ lệ hộ nghèo
|
Số hộ cận nghèo
|
Tỷ lệ hộ cận nghèo
|
|
A
|
B
|
1
|
2
|
3=2/1
|
4
|
5=4/1
|
6
|
|
1
|
Điện Biên Phủ
|
13.990
|
191
|
1,37
|
125
|
0,89
|
|
|
2
|
Mường Lay
|
2.998
|
297
|
9,91
|
36
|
1,20
|
|
|
3
|
Mường Nhé
|
7.829
|
5.795
|
74,02
|
189
|
2,41
|
|
|
4
|
Mường Chà
|
8.297
|
5.862
|
70,65
|
622
|
7,50
|
|
|
5
|
Tủa Chùa
|
10.257
|
7.146
|
69,67
|
798
|
7,78
|
|
|
6
|
Tuần Giáo
|
17.278
|
9.606
|
55,60
|
2.242
|
12,98
|
|
|
7
|
Điện Biên
|
27.362
|
7.943
|
29,03
|
2.918
|
10,66
|
|
|
8
|
Điện Biên Đông
|
12.070
|
8.555
|
70,88
|
633
|
5,24
|
|
|
9
|
Mường Ảng
|
9.936
|
5.456
|
54,91
|
1.183
|
11,91
|
|
|
10
|
Nậm Pồ
|
8.826
|
6.363
|
72,09
|
389
|
4,41
|
|
|
Thành thị
|
20.901
|
904
|
4,33
|
273
|
1,31
|
|
|
Nông thôn
|
97.942
|
56.310
|
57,49
|
8.862
|
9,05
|
|
|
Chung 5 huyện nghèo
|
48.918
|
33.315
|
68,10
|
3.192
|
6,53
|
|
|
Tổng cộng
|
118.843
|
57.214
|
48,14
|
9.135
|
7,69
|
|
|
Nguồn: UBND tỉnh Điện Biên.
Giá trị sản xuất ngành công nghiệp năm 2015 đạt 2.518 tỷ đồng, tăng 1,83% so với năm 2010, tốc độ tăng bình quân 12,8%/năm. Các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập trung chủ yếu ở khu vực quanh thành phố Điện Biên Phủ. Các sản phẩm công nghiệp chính ở Điện Biên hiện nay gồm: thực phẩm, đồ uống, điện, đá xây dựng và các sản phẩm khoáng sản.
Sau hơn 10 năm tách tỉnh, số hộ đói lưu niên trên địa bàn tỉnh không còn, số hộ nghèo trong tỉnh cũng giảm mạnh qua các năm từ 44% năm 2005 xuống còn 28,01% năm 2015, không chỉ về số lượng mà nếu tính theo tiêu chuẩn hộ nghèo mới thì công cuộc xóa đói giảm nghèo của Điện Biên còn có sự thay đổi tích cực cả về chất lượng. Tổng số hộ dân cư trên địa bàn toàn tỉnh năm 2015 là 118.844 hộ, trong đó hộ nghèo: 57.214 hộ, chiếm tỷ lệ 48,14%, hộ cận nghèo: 9.135 hộ, chiếm tỷ lệ 7,69%.Trong đó hộ nghèo là dân tộc Kinh có 868 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 1,52%; Hộ nghèo là người dân tộc thiểu số có 56.346 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 98,48%, (bao gồm: Dân tộc Mông có 28.951 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 50,60% tổng số hộ nghèo toàn tỉnh; Dân tộc Thái có 20.174 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 35,26% tổng số hộ nghèo toàn tỉnh; Dân tộc Khơ mú có 3.052 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 5,33% tổng số hộ nghèo toàn tỉnh; Dân tộc thiểu số khác 2.754 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 4,81% tổng số hộ nghèo toàn tỉnh).
Hộ nghèo theo kết quả điều tra năm 2015 (theo chuẩn mới giai đoạn 2016-2020), toàn tỉnh có 57.214 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 48,14%, tăng 19.649 hộ nghèo (tăng 15,50% do tiêu chuẩn hộ nghèo tăng lên) so với năm 2014 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015; năm 2014 toàn tỉnh có 37.565 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 32,57%). Hộ cận nghèo: Năm 2015 toàn tỉnh có 9.135 hộ, chiếm tỷ lệ 7,69% giảm 2.104 hộ cận nghèo (giảm tỷ lệ hộ cận nghèo 2,06%) so với năm 2014 (năm 2014, hộ cận nghèo là 11.239 hộ, tỷ lệ 9,75%).[8]
Thu nhập bình quân đầu người tăng khá nhanh và ổn định, từng bước thu hẹp khoảng cách với các vùng và cả nước. Thu nhập bình quân đầu người (giá thực tế) tăng từ 11,7 triệu đồng năm 2010 lên 19,8 triệu đồng năm 2013 và năm 2015 đạt 1.100 USD, bằng 55% so với trung bình cả nước.
Tuy nhiên do điểm xuất phát thấp, quy mô kinh tế nhỏ bé và điều kiện phát triển kết cấu hạ tầng còn khó khăn, các tiềm năng và thế mạnh của tỉnh chưa được khai thác triệt để…nên GRDP bình quân đầu người của Tỉnh vẫn nằm trong nhóm các tỉnh có mức thu nhập thấp nhất trong vùng Trung du miền núi phía Bắc. So với các tỉnh phụ cận (Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình), Điện Biên là tỉnh có diện tích lớn chỉ sau tỉnh Sơn La và trên tỉnh Hòa Bình; là tỉnh có tiềm năng và lợi thế trong phát triển nông lâm nghiệp, nhất là lâm nghiệp; song GRDP bình quân đầu người đứng thứ 3/4 tỉnh trong Tây Bắc và thứ 10/12 tỉnh vùng Trung du miền núi Bắc Bộ.
Bảng 2: GRDP bình quân đầu người của các tỉnh Vùng TDMN phía Bắc
Đơn vị: triệu đồng, giá hiện hành.
Tỉnh
|
2000
|
2005
|
2010
|
2011
|
2012
|
Xếp TT.2012
|
Hà Giang
|
2,0
|
3,2
|
8,8
|
11,1
|
13,0
|
13
|
Tuyên Quang
|
2,4
|
4,6
|
15,4
|
18,6
|
22,0
|
4
|
Cao Bằng
|
4,6
|
3,8
|
10,9
|
13,3
|
15,4
|
12
|
Lạng Sơn
|
3,1
|
6,2
|
13,5
|
16,3
|
20,1
|
6
|
Lào Cai
|
2,5
|
5,1
|
16,9
|
23,0
|
26,1
|
1
|
Yên Bái
|
2,4
|
4,7
|
11,5
|
14,1
|
16,6
|
11
|
Thái Nguyên
|
2,8
|
5,8
|
17,5
|
22,3
|
25,6
|
2
|
Bắc Kạn
|
1,8
|
8,2
|
10,9
|
14,4
|
17,3
|
9
|
Phú Thọ
|
3,0
|
4,3
|
14,8
|
18,3
|
20,5
|
5
|
Bắc Giang
|
2,4
|
4,2
|
12,4
|
15,4
|
19,1
|
8
|
Hòa Bình
|
2,4
|
4,0
|
19,3
|
22,0
|
25,1
|
3
|
Sơn La
|
2,0
|
4,1
|
13,1
|
16,9
|
20,0
|
7
|
Lai Châu
|
1,7
|
3,6
|
7,9
|
10,3
|
12,2
|
14
|
Điện Biên
|
2,3
|
3,8
|
11,7
|
14,4
|
17,2
|
10
|
Nguồn: Xử lý từ Niên giám thống kê các tỉnh.
2. Nguyên nhân Tỉnh Điện Biên đạt được thành tựu trên:
2.1. Chủ trương, chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng, Nhà nước và tỉnh Điện Biên
Đảng và Nhà nước có nhiều chủ chương chính sách ưu tiên cho phát triển kinh tế xã hội các tỉnh đặc biệt khó khăn trong đó có tỉnh Điện Biên như: chương trình 30A, chương trình 135, chương trình 29 xã biên giới… và đặc biệt là chương trình phát triển hạ tầng cho tỉnh. Thực tiễn xóa đói, giảm nghèo trong nước và trên thế giới đều chứng minh, để xóa đói, giảm nghèo thành công, bền vững thì việc xây dựng cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước, phải được thực hiện đồng bộ, kịp thời.
Thực tiễn ở Điện Biên chứng minh rằng đường giao thông mở đến đâu thì kinh tế phát triển tới đó. Đường giao thông giúp đi lại thông suốt, hàng hóa được lưu thông dễ dàng trên thị trường, cùng với đó là sự du nhập của văn minh hiện đại. Điện, đường, trường, trạm mở đến đâu thì cuộc sống của nhân dân thay đổi đến đó. Tạo điều kiện cho nhân dân thay đổi từ trong nhận thức, tiếp thu cái mới, thay đổi phương thức sản xuất, canh tác, bắt kịp với những tiến bộ trong khoa học, công nghệ, kỹ thuật của thời đại hiện nay, của các vùng miền trên cả nước.
Sau khi tách tỉnh, Điện Biên đã chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, vốn hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn, vốn chương trình 135 và nhiều chương trình, dự án khác. Tỉnh chú trọng xây dựng các tuyến đường giao thông, bởi do đặc thù địa hình trong Tỉnh đi lại rất khó khăn, cản trở sự phát triển kinh tế của địa phương. Cùng với mở đường là một loạt công trình khác như thủy lợi, nước sạch, điện, trạm y tế và đặc biệt là trường học được đầu tư vốn khá lớn. Nhờ chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mà kinh tế Điện Biên có sự khởi sắc đáng kể, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Cuộc vận động xóa đói, giảm nghèo nơi đây cũng vì thế mà đạt được thành tựu lớn.
2.2. Tuyên truyền, vận động, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức cho đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn tự thân xóa đói giảm nghèo:
Chúng ta có thể thấy một trong những nguyên nhân đói nghèo của đồng bào các dân tộc ở Điện Biên là do trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán sinh hoạt và sản xuất còn lạc hậu. Chính vì vậy Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh Điện Biên xác định phải tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, bồi dưỡng khoa học kỹ thuật cho nhân dân. Biện pháp mà Tỉnh đưa ra là đưa cán bộ xuống tận các thôn bản cùng làm, cùng ăn, cùng ở với nhân dân. Tranh thủ đội ngũ cán bộ, đảng viên là người dân tộc thiểu số, am hiểu ngôn ngữ, văn hóa của các dân tộc dễ dàng tuyên truyền, lấy được lòng tin trong nhân dân.
Bên cạnh đó, Tỉnh chú trọng công tác giáo dục - đào tạo cho con em các dân tộc, tạo điều kiện cho các em theo học các lớp học nghề, lớp đào tạo chuyên nghiệp ở tỉnh và Trung ương. Mục đích cuối cùng là nhằm nâng cao nhận thức nâng cao trình độ văn hóa, hiểu biết khoa học, công nghệ, kỹ năng sản xuất, kinh doanh của đồng bào, giúp họ biết tự vươn lên trong cuộc sống, không trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước.
Trong công cuộc xóa đói giảm nghèo thì vai trò quyết định chính là ở người dân. Nếu như chủ trương đường lối có đúng đắn, kịp thời nhưng nếu người dân không tự ý thức thoát nghèo thì không thể thành công được. Hiện nay ở Tỉnh Điện Biên vẫn còn một bộ phận người dân (mặc dù không nhiều) vẫn có tư tưởng ỉ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, trong đó các hộ gia đình có người nghiện ma túy chiếm đa số.
2.3. Phát huy sức mạnh tổng hợp và huy động mọi nguồn lực trong cuộc vận động xóa đói, giảm nghèo.
Thực hiện cuộc vận động xóa đói, giảm nghèo là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp. Để thực hiện thành công cuộc vận động cần có sự phối kết hợp chặt chẽ của các ngành, các cấp. Thực hiện chủ trương của Nhà nước về xóa đói, giảm nghèo Đảng bộ tỉnh Điện Biên đã tập trung trí tuệ, công sức lãnh đạo công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Quá trình xóa đói, giảm nghèo của nhân dân tỉnh Điện Biên có sự góp sức của các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các ban ngành đoàn thể, và các tổ chức có liên quan.
Các cơ quan lãnh đạo,quản lý cần phối hợp thực hiện các chương trình, dự án xóa đói, giảm nghèo, dự án phát triển vùng dân tộc thiểu số, dân tộc đặc biệt khó khăn, chương trình 327, chương trình 06, chương trình 135… để cuộc vận động đạt kết quả cao nhất.
Điện Biên là một Tỉnh có 04 huyện nghèo, nguồn vốn đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo của tỉnh hàng năm thấp hơn nhiều so với nhu cầu đặt ra. Nguồn nội lực trong nhân dân còn rất hạn chế, do chính bản thân họ đang là đối tượng đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, để xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên đã chủ động, tích cực, sáng tạo tận dụng mọi nguồn lực để giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế.
Hàng năm, Mặt trận Tổ quốc Tỉnh đều rất tích cực, chủ động trong việc vận động nhân dân, tiếp nhận sự ủng hộ của các đơn vị, cá nhân, cơ quan, đoàn thể cho “ngày vì người nghèo”. Nhiều doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đã tự nguyện giúp đỡ nhân dân các thôn, bản đặc biệt khó khăn phát triển kinh tế. Ngoài ra, huyện còn được tiếp cận các nguồn vốn nước ngoài của các tổ chức phi chính phủ giúp đỡ nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng công trình nước sạch; cấp học bổng, xây trường học cho trẻ em các dân tộc.
Để cuộc vận động xóa đói, giảm nghèo thành công, một trong những yếu tố quan trọng đó chính là đội ngũ cán bộ. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xóa đói, giảm nghèo muốn đến được với nhân dân, đạt được kết quả tốt nhất để phục vụ nhân dân thì cũng phải thông qua đội ngũ cán bộ này. Đảng bộ tỉnh Điện Biên cũng không ngừng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ của Tỉnh thông qua các loại hình đào tạo như cử tuyển, đào tạo chuyên tu, tại chức, liên kết các trường… Cùng với đó là chính sách hỗ trợ con em các dân tộc thiểu số đi học, chính sách thu hút nhân tài, chế độ đãi ngộ cao đối với cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ giỏi… Bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn thì để vận động xóa đói, giảm nghèo đội ngũ cán bộ cần phải thấu hiểu phong tục, tập quán của nhân dân, có hiểu họ thì mới có thể tiếp cận, nắm bắt được tâm lí từ đó dần dần tuyên truyền, vận động đồng bào tự nguyện làm theo.
Kết luận: Sau hơn mười năm tách tỉnh Đảng bộ tỉnh Điện Biên lãnh đạo thực hiện xóa đói, giảm nghèo của tỉnh đạt được những thành tựu đáng kể, bộ mặt Điện Biên có nhiều thay đổi, cuộc sống của nhân dân các dân tộc nơi đây cũng khá hơn trước rất nhiều. Từ cuộc sống còn nhiều khó khăn như đồng bào nhiều dân tộc thuộc nhiều huyện trong tỉnh sống phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, với “ bốn không” là không được học hành, không được chăm sóc y tế, không điện, không nước sạch, nhân dân Điện Biên đã chủ động được cuộc sống của mình, nhận thức của đồng bào đã thay đổi hẳn, họ chủ động làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình. Con cái được học hành, thành đạt, được chăm sóc sức khỏe, hưởng thụ cuộc sống văn minh, xóa dần khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền, các dân tộc. Có được những thành công trên là nhờ có sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự điều hành của chính quyền các cấp. Đồng thời cũng chứng tỏ sự đúng đắn trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề dân tộc nói chung và với cuộc vận động xóa đói, giảm nghèo nói riêng. Nhân dân Điện Biên ngày càng tin tưởng vào đường lối của Đảng, chủ trương chính, sách của Nhà nước, đồng sức, đồng lòng thực hiện xóa đói giảm nghèo nâng cao đời sống của nhân dân và đưa Điện Biên tiến kịp với các địa phương trong cả nước.
Để công cuộc xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Điện Biên đạt được những thành tựu to lớn hơn trong thời gian tới cần phải tiếp tục đổi mới, nâng cao phương thức lãnh đạo của cả hệ thống chính trị; nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, quán triệt, đảm bảo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc, tạo sự thống nhất và đồng thuận trong xã hội cả về tư tưởng và hành động; Tận dụng mọi nguồn để giúp người dân thực hiện xóa đói giảm nghèo bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Lai Châu (2004), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lai Châu tập I (1975 -2003), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Điện Biên (2005), Văn kiện Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2005 – 2010, Tháng 12 năm 2005, Điện Biên Phủ.
- Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Điện Biên (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XII, nhiệm kỳ 2010 – 2015, Tháng 1 năm 2011, Điện Biên Phủ.
- Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Điện Biên (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2015 – 2020, Tháng 10 năm 2015, Điện Biên Phủ.
- Cục Thống kê tỉnh Điện Biên (2006), Niên giám thống kê 2005, Nxb. Thống Kê, Hà Nội.
- Cục Thống kê tỉnh Điện Biên (2011), Niên giám thống kê 2010, Nxb. Thống Kê, Hà Nội.
- Cục Thống kê tỉnh Điện Biên (2015), Niên giám thống kê 2014, Nxb. Thống Kê, Hà Nội.
- Trương Xuân Cừ (2009), Điện Biên 100 năm xây dựng và phát triển (1909 - 2009), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- http://dienbientv.vn/tin-tuc-su-kien/xa-hoi/201608/dien-bien-co-9685-nguoi-nghien-ma-tuy-2445552/
- [1]https://vi.wikipedia.org/wiki/Nghèo_ở_việt_nam
- Tỉnh ủy Điện Biên (2006), Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về Chương trình xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2006-2010, Số 02-NQ, ngày 10 tháng 7 năm 2006.
- Tỉnh ủy – Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên (2009), Điện Biên 100 năm xây dựng và phát triển.
- Tỉnh ủy Điện Biên (2013), Báo cáo đánh giá chính sách an sinh xã hội và thực hiện chính sách an sinh xã hội giai đoạn 1991-2013, Số 131-BC/TU, ngày 27 tháng 11 năm 2013.
- Ủy Ban nhân dân tỉnh Điện Biên (2006), Báo cáo kết quả thực hiện chương trình mục tiêu xóa đói giảm nghèo tỉnh Điện Biên giai đoạn 2001 – 2005; kế hoạch giai đoạn 2006 - 2010, Số 15/BC-UBND, ngày 26 tháng 1 năm 2006.
- Ủy Ban nhân dân tỉnh Điện Biên (2006), Chương trình mục tiêu xóa đói giảm nghèo tỉnh Điện Biên, giai đoạn 2006-2010, Kèm theo Quyết định số 870/QĐ-UBND, ngày 10 tháng 8 năm 2006.
- Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên, Ban chỉ đạo điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo (2011), Báo cáo kết quả điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo phục vụ cho việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội giai đoạn 2011 – 2015, tỉnh Điện Biên, số 20/BC-BCĐ, ngày 16 tháng 3 năm 2011.
- Ủy Ban nhân dân tỉnh Điện Biên (2016), Sở Lao động - Thương binh & Xã hội tỉnh Điện Biên, Tờ trình Về việc phê duyệt kết quả tổng điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2015 trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
- Ủy Ban nhân dân tỉnh Điện Biên (2016), Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2016 – 2020.
- Tài liệu phỏng vấn sâu của tác giả thực hiện năm 2016.
[1] http://dienbientv.vn/tin-tuc-su-kien/xa-hoi/201608/dien-bien-co-9685-nguoi-nghien-ma-tuy-2445552/
[2] https://vi.wikipedia.org/wiki/Nghèo_ở_việt_nam
[3] Chuẩn nghèo Việt Nam là một tiêu chuẩn để đo lường mức độ nghèo của các hộ dân tại Việt Nam. Chuẩn này khác với chuẩn nghèo bình quân trên thế giới. Theo quyết định của thủ tướng chính phủ Việt Nam 170/2005/QĐ-TTg ký ngày 08 Tháng 07 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010:
|
|
|
|
Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo
|
|
Cho đến năm 2009, theo chuẩn nghèo trên, cả nước Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số
Ngày 30 tháng 01 năm 2011, Quyết định Số 09/2011/QĐ-TTg ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011- 2015:
1. Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
2. Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
3. Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.
4. Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020. Theo đó, các tiêu chí tiếp cận đo lường nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 gồm tiêu chí về thu nhập, mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản.
Với tiêu chí về thu nhập, quyết định quy định chuẩn nghèo ở khu vực nông thôn là 700.000 đồng/người/tháng; ở khu vực thành thị 900.000 đồng/người/tháng. Quy định chuẩn cận nghèo ở khu vực nông thôn là 1.000.000 đồng/người/tháng; ở khu vực thành thị 1.300.000 đồng/người/tháng.
Về tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, quyết định nêu rõ, các dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm 5 dịch vụ: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin.
[4] Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Điện Biên (2005), Văn kiện Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2005 – 2010, Tháng 12 năm 2005, Điện Biên Phủ, tr20.
[5] Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Điện Biên (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XII, nhiệm kỳ 2010 – 2015, Tháng 1 năm 2011, Điện Biên.
[6] Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Điện Biên (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2015 – 2020, Tháng 10 năm 2015, Điện Biên Phủ, tr 17.
[7] Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên, Ban chỉ đạo điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo (2011), Báo cáo kết quả điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo phục vụ cho việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội giai đoạn 2011 – 2015, tỉnh Điện Biên.
[8] Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên, Ban chỉ đạo điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo (2011), Báo cáo kết quả điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo phục vụ cho việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội giai đoạn 2011 – 2015,