Tóm tắt: Vấn đề việc làm của tỉnh Điện Biên đã được Đảng bộ tỉnh giải quyết rất tích cực đạt được nhiều thành tựu, tạo được nhiều việc làm thường xuyên cho người dân. Trên cơ sở phân tích thực trạng thực hiện việc làm ở tỉnh Điện Biên, bài viết nêu ra một số giải pháp chiến lược nhằm thực hiện tốt vấn đề việc làm ở tỉnh Điện Biên trong thời gian tới.
Từ khóa: Việc làm, Điện Biên, giải pháp chiến lược.
------------------------------------------------------------
Giải quyết việc làm cho người lao động là vấn đề bức xúc chung ở Việt Nam và càng trở nên cấp thiết hơn đối với những tỉnh miền núi gặp nhiều khó khăn như tỉnhĐiện Biên. Theo thống kê của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, hiện toàn tỉnh có 459.119 người, trong đó, số người trong độ tuổi lao động 280.063 người, chiếm 61% tổng dân số. Mỗi năm có khoảng 4.500 người bước vào độ tuổi lao động và có khoảng trên 6.500 người cần giải quyết việc làm. Đây thực sự là một sức ép lớn trong quá trình giải quyết việc làm cho lao động ở tỉnh. Từ khi tách tỉnh đến nay, mặc dù diễn ra trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, do tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2011- 2013 đạt thấp so với mục tiêu kế hoạch, nhiều hậu quả của suy giảm kinh tế những năm trước chưa thể khắc phục như số doanh nghiệp phải đóng cửa, giải thể còn nhiều, nguồn vốn đầu tư sụt giảm, tình hình nợ đọng chưa được xử lý triệt để; đặc biệt với đặc thù là tỉnh miền núi ở khu vực Tây Bắc của Việt Nam có biên giới giáp với 2 nước Trung Quốc và Lào với địa hình chủ yếu là núi cao, hiểm trở, với trên 80% dân số là người dân tộc, đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh. Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp và sự đồng thuận của đại bộ phận nhân dân và người lao động trên địa bàn tỉnh, tính đến năm 2015 lĩnh vực giải quyết việc làm đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần quan trọng vào hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Năm 2015, ngoài việc ổn định việc làm thường xuyên cho 293.290 lao động, đã giải quyết việc làm mới cho 8.534 người (đạt 100,4% kế hoạch năm, tăng 0,7% so với năm 2013 và 2014), gồm: Giải quyết việc làm từ cho vay vốn giải quyết việc làm 1.558 lao động, cung ứng và giới thiệu việc làm cho 35 lao động cho các công ty, doanh nghiệp ngoài tỉnh. Trong đó, số lao động được giải quyết việc làm mới trong nước là 8.482, chia theo lĩnh vực kinh tế: Nông - Lâm nghiệp - Thủy sản: 2.113 lao động, chiếm 24,9%; công nghiệp - Xây dựng: 3.053 lao động, chiếm 36%; Thương mại dịch vụ: 3.316 lao động, chiếm 39,1%. Thông qua kết quả giải quyết việc làm nêu trên, đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực; năm 2014, tỷ lệ lao động khu vực nông - lâm nghiệp, thủy sản giảm từ 67,86% năm 2013 xuống còn 65,74%; tỷ lệ lao động trong ngành thương mại - dịch vụ tăng từ 20,05% lên 20,98%; tỷ lệ lao động trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng tăng từ 11,74% lên 12,80%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giảm từ 3,7% năm 2013 xuống còn 3,5% [2].
Tính đến 31/12/2014, thông qua nguồn vốn vay Trung ương cấp bổ sung cho tỉnh hàng năm, đã tích lũy được 64.394 triệu đồng (trong đó, tỉnh trực tiếp quản lý là 59.267 triệu đồng, đoàn thể Trung ương quản lý: 5.127 tiệu đồng), nguồn vốn vay đã được phân bổ cho 9/10 huyện, thị xã, thành phố (riêng huyện Nậm Pồ do mới thành lập nên nguồn vốn vay cùng với huyện Mường Nhé). Năm 2014, Trung ương cấp bổ sung cho tỉnh 2.800 triệu đồng, kết hợp cùng với số vốn thu hồi được trong năm, đã cho vay 1.384 dự án, với số vốn cho vay trong năm là 31.152 triệu đồng, trong đó: có 39 dự án cơ sở sản xuất kinh doanh, với số vốn vay là 4.280 triệu đồng; 1.345 dự án hộ, nhóm hộ gia đình với số vốn vay là 26.872 triệu đồng. Thông qua nguồn vốn cho vay quỹ quốc gia về việc làm đã góp phần tạo việc làm cho 1.558 lao động, đạt 124%KH (chiếm khoảng 18% tổng số việc làm mới được tạo ra trong năm), tỷ lệ nợ quá hạn thấp 1,16%/ tổng số vốn được giao; tỷ lệ vốn tồn đọng không đáng kể chiếm 0,5% [3].
Tính đến năm 2014, một số mô hình vay vốn tạo việc làm có hiệu quả như: Dự án mở rộng nhà xưởng sửa chữa cơ khí của ông Duy Bào, khối 6 trị trấn Mường Ảng, huyện Mường Ảng; dự án đã thu hút 5 lao động phổ thông vào làm việc ổn định, mức thu nhập bình quân 2,5-3 triệu đồng/ người/tháng; tăng thu nhập cho hộ gia đình, sau khi trừ chi phí lãi trên 50 triệu đồng/năm. Dự án Đầu tư mua máy móc, nhà xưởng thu mua, chế biến nông sản của bà Phạm Thị Hương, bản Quyết Thắng, xã Búng Lao, huyện Mường Ảng vay 100 triệu, thu hút được 5 lao động vào làm việc ổn định; mức thu nhập 3,2-3,5 triệu đồng/người/tháng.
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động; tăng nguồn thu ngoại tệ cho tỉnh; góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị ở địa phương. Đặc biệt, với tỉnh ta có số người ở độ tuổi lao động thất nghiệp cao, thì xuất khẩu lao động là một kênh giải quyết việc làm rất có ý nghĩa và thiết thực, nhằm nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo bền vững. Nhận thức được vấn đề đó, công tác xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh đã tiếp tục được các cấp, các ngành quan tâm triển khai thực hiện. Uỷ ban nhân dân tỉnh đã giao chỉ tiêu xuất khẩu lao động cho các huyện, thị xã, thành phố; đồng thời ban hành kế hoạch triển khai thực hiện; năm 2014, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, các Sở ngành có liên quan và Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, triển khai thực hiện công tác xuất khẩu lao động. Tuy nhiên, kết quả xuất khẩu lao động năm 2014 và năm 2015 trên địa bàn tỉnh vẫn đạt thấp.
Thông qua hoạt động đầu tư nâng cao năng lực, năm 2015 Trung tâm Giới thiệu việc làm đã tư vấn, giới thiệu việc làm, xuất khẩu lao động cho trên 6.720 lượt người; đã giới thiệu việc làm trong nước cho 98 lao động, trong đó có 5 lao động đi làm việc cho công ty ngoài tỉnh (02 lao động làm việc cho Công ty TNHH Phúc Hà ở tỉnh Hưng Yên, 03 lao động làm việc cho công ty TNHH Xe đạp điện Việt Nam ở tỉnh Vĩnh Phúc) và tư vấn, giới thiệu, tuyển chọn cung ứng cho các công ty được 50 lao động đi xuất khẩu lao động; đào tạo nghề cho 715 lao động nông thôn; tiếp nhận và giải quyết Hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp cho 123 lao động bị thất nghiệp, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2013[4]. Năm 2015, là năm thứ 5 thực hiện việc thu thập, cập nhật ghi chép thông tin về cung lao động và là năm thứ 4 thực hiện việc thu thập, cập nhật ghi chép thông tin về cầu lao động.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giải quyết việc làm của tỉnh Điện Biên còn một số tồn tại, hạn chế trong công tác cập nhật thông tin cơ sở dữ liệu cung lao động: Tiến độ thực hiện việc cập nhật, thu thập thông tin về cung lao động ở một số huyện còn chậm so với kế hoạch của tỉnh và chưa hoàn thành việc nhập tin vào phần mềm; Kết quả nhập tin so với kết quả cập nhật biến động vào sổ mới đạt 65. Nguyên nhân là do: Một số chính quyền cấp huyện, xã chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác cập nhật thông tin cơ sở dữ liệu về cung, cầu lao động - Phần Cung lao động, từ đó chưa quan tâm chỉ đạo, chưa bố trí nguồn lực, nhân lực cho công tác cập nhật thông tin hàng năm. Điện Biên là tỉnh nghèo hàng năm trên 90% kinh phí do Trung ương cấp; một số huyện không bố trí được kinh phí cho công tác cập nhật thông tin cơ sở dữ liệu cung, cầu lao động. Các Phòng Lao động, Thương binh, Xã hội cấp huyện đều không có cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin nên khó khăn trong việc nhập tin vào phần mềm; cán bộ Phòng làm việc – an toàn lao động kiêm nhiệm nhiều lĩnh vực nên ảnh hưởng đến tiến độ chung. Một số đồng chí trưởng phòng còn chưa coi trọng và quan tâm đến công tác này.
Để làm tốt hơn nữa công tác gải quyết việc làm của tỉnh Điện Biên trong thờì kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại háo, tỉnh Điện Biên cần thực hiện tốt hơn một số gải pháp chiến lược:
Thứ nhất: Tăng cường các yếu tố đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội trên tất cả lĩnh vực: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động trong nông thôn, phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong khu vực nông nghiệp và nông thôn, phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành thương mại du lịch, dịch vụ ở các địa bàn đông dân. Đầu tư phát triển kinh tế: Tiếp tục thu hút đầu tư trong và ngoài tỉnh thúc đẩy phát triển sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến, đặc biệt là chế biến nông lâm sản, đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án thủy điện. Khuyến khích, tạo điều kiện để các cơ sở sản xuất công nghiệp đổi mới dây chuyền công nghệ, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp. Chú trọng hỗ trợ khôi phục, phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống có ưu thế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Phát triển các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch và thương mại; phát triển công nghiệp - xây dựng tạo ra nhiều chỗ làm mới và làm chuyển hướng về cơ cấu lao động theo hướng tích cực; có kế hoạch khảo sát nguồn nhân lực hiện tại, kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực theo lộ trình và có cơ chế đầu tư tài chính phù hợp cho sự phát triển lực lượng lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động. Đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động. Tập trung hỗ trợ các nhóm lao động yếu thế, lao động là thanh niên, người thất nghiệp, người thiếu việc làm vay vốn với lãi suất ưu đãi để tạo việc làm.
Thứ hai: Đẩy mạnh đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực: Nâng cao đào tạo lao động cả về số lượng và chất lượng, tập trung cho chương trình đào tạo nghề bậc cao nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển kinh tế của tỉnh và tạo nguồn xuất khẩu lao động. Liên kết các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, nhằm đào tạo lao động phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp đảm bảo đầu ra cho lao động được đào tạo. Đẩy mạnh công tác đào tạo, nâng cao trình độ của người lao động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản nhằm giúp người lao động khai thác tốt tiềm năng hiện có trong nông nghiệp như chế biến nông sản và áp dụng được tiến bộ khoa học vào sản xuất nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi. Chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang đào tạo các ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ nhằm đáp ứng cho công cuộc chuyển đổi cơ cấu lao động, phục vụ cho phát triển kinh tế của tỉnh cũng như cho xuất khẩu lao động. Trên cơ sở Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Điện Biên giai đoạn 2011-2020, Đề án Dạy nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 tỉnh Điện Biên, Quy hoạch phát triển ngành giáo dục..., các cấp, các ngành, các doanh nghiệp có kế hoạch đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; đặc biệt là tập trung nguồn nhân lực đào tạo nghề cho lao động nông thôn năm 2015.
Thứ ba: Phát triển nguồn vốn, phát huy hiệu quả sử dụng vốn cho vay giải quyết việc làm, giảm nghèo: Thành lập Quỹ giải quyết việc làm địa phương, năm 2015 bố trí kinh phí địa phương cho Quỹ là 3.000 đồng, cùng với số vốn Trung ương bổ sung cho tỉnh hàng năm để cho vay giải quyết việc làm; lồng ghép các hoạt động của chương trình cho vay giải quyết việc làm và chương trình giảm nghèo để phát huy hiệu quả vốn vay; tạo việc làm mới và ổn định cuộc sống. Sử dụng nguồn vốn tập trung ưu tiên cho vay vốn đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ, sử dụng nhiều lao động; cho vay vốn đối với các dự án tạo việc làm ở vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, phát triển các vùng chuyên canh, các trang trại chăn nuôi, trồng trọt, ... tạo nhiều việc làm ổn định và chất lượng.
Thứ tư: Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động: Tổ chức điều tra, xây dựng và hoàn thiện phần mềm cơ sở dữ liệu về cung lao động; điều tra thông tin cơ sở dữ liệu về cầu lao động theo tiêu chí điều tra cầu lao động đối với doanh nghiệp và người lao động;Tổ chức công tác dự báo về thị trường lao động định kỳ trên địa bàn tỉnh để định hướng phát triển và có chính sách phát triển thị trường lao động theo hướng tích cực. Phát huy vai trò của Trung tâm Dịch vụ việc làm, gắn kết, phối hợp cung cấp thông tin, dự báo cung - cầu lao động để có giải pháp cho công tác giải quyết việc làm của tỉnh. Tổ chức thông tin tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về việc làm, dạy nghề, học nghề và thị trường lao động.
Thứ năm: Tăng cường công tác nâng cao năng lực cán bộ lao động - việc làm; thông tin, tuyên truyền thông; giám sát, đánh giá: Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý nhà nước cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã về lao động, việc làm, xuất khẩu lao động. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về việc làm, xuất khẩu lao động, thị trường lao động trên các phương tiện thông tin đại chúng; đẩy mạnh công tác tư vấn, giới thiệu việc làm, xuất khẩu lao động cho người lao động. Tăng cường công tác thanh, kiểm tra, giám sát, đánh giá các hoạt động, dự án của Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề.
[1] Khoa Lý luận chính trị - Đại học Kinh tế Quốc Dân.
[2] Báo cáo chuyên đề thực hiện công tác gải quyết việc làm năm 2014 của tỉnh Điện Biên
[3] Kế hoạch giải quyết việc làm tỉnh Điện Biên năm 2014
[4] Kế hoạch giải quyết việc làm tỉnh Điện Biên năm 2015