TS. Nguyễn Thị Hoàn
Th.s Phí Thị Lan Phương
Đại học Kinh tế Quốc Dân
I. ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIAI ĐOẠN 1991-2013
1- Bối cảnh kinh tế - xã hội và chức năng, nhiệm vụ của địa phương đối với công tác an sinh xã hội.
1.1 – Bối cảnh kinh tế - xã hội của địa phương
Điện Biên là tỉnh miền núi, biên giới phía Tây Bắc của tổ quốc, có diện tích tự nhiên là 9.562,9 km2; có đường biên giới quốc gia dài 400,861 km (trong đó tiếp giáp Lào là 360 km, với Trung Quốc là 40,861 km). Trên tuyến biên giới Việt - Lào có cửa khẩu quốc tế Tây Trang (thông quan với tỉnh Phoong Sa Ly) và cửa khẩu quốc gia Huổi Puốc (thông quan với tỉnh Luông Phra Bang); trên tuyến biên giới Việt – Trung có cửa khẩu phụ A Pa Chải (thông quan với huyện Giang Thành - tỉnh Vân Nam).
Toàn tỉnh có 10 đơn vị hành chính, gồm 8 huyện, 1 thị xã, 1 thành phố với 130 xã, phường, thị trấn, (trong đó: có 96 xã thuộc khu vực 3; 11 xã khu vực 2; 23 xã khu vực I); tỉnh có 05 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ; 02 huyện có tỷ lệ nghèo cao được hưởng chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng theo quy định của Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP.
Dân số trung bình năm 2012 của tỉnh ước đạt 519.286 người, mật độ dân số bình quân 54 người/km2, là một trong những tỉnh có mật độ dân số thấp nhất trong cả nước và thấp hơn nhiều so với mật độ dân số trung bình của vùng Tây Bắc. Trên địa bàn tỉnh Điện Biên hiện có 21 dân tộc sinh sống, trong đó dân tộc Thái chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 42,2%, tiếp đến là dân tộc H’Mông chiếm 27,2%, dân tộc Kinh chiếm 19%, dân tộc Khơ Mú 3,9%, còn lại là các dân tộc khác như Dao, Hà Nhì, Hoa, Kháng... Các dân tộc ở Điện Biên có những nét văn hoá đặc trưng của đồng bào khu vực Tây Bắc.
GDP bình quân đầu người năm 2012 đạt 17,060 triệu đồng (tương đương 812,4 USD/người/năm), tăng 116,98% so với năm 2011.
Lương thực bình quân đầu người năm 2012 đạt 449,7 kg/người/năm (tổng sản lượng LT có hạt 233.507 tấn/519.286 người).
Trong những năm gần đây tỉnh Điện Biên đã đạt kết quả to lớn trong công tác phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, tuy nhiên Điện Biên vẫn là một tỉnh đặc biệt khó khăn, trên 90% ngân sách được Trung ương điều phối, tỷ lệ hộ nghèo năm 2008 còn 36,75% (trong đó tại các huyện nghèo, tỷ lệ nghèo trung bình 57,5%) theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010. Đến năm 2012 tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 38,24% (trong đó tại 04 huyện nghèo, tỷ lệ nghèo trung bình 55,08%) theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến đói nghèo, theo kết quả tổng điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2010 cho thấy 76% lượt hộ nghèo do thiếu tư liệu sản xuất, vốn, đất canh tác; 30,18% lượt hộ nghèo do thiếu lao động, đông người ăn theo hoặc không có việc làm; 10,7% lượt hộ nghèo do không biết cách làm ăn, ốm đau, mắc tệ nạn xã hội hoặc chây lười.
1.2 – Chức năng, nhiệm vụ của địa phương đối với công tác an sinh xã hội
Tỉnh đã ban hành Nghị quyết chuyên đề Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020 với quan điểm, tư tưởng chủ đạo như sau:
1) Xác định giảm nghèo gắn với bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, có ý nghĩa to lớn cả về chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh thể hiện đạo lý tốt đẹp của dân tộc. Nhiệm vụ giảm nghèo là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, trước hết của cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
2) Phát huy truyền thống và sức mạnh đoàn kết các dân tộc, đẩy mạnh phát triển kinh tế, tập trung giảm nghèo nhanh và bền vững; thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế trên cơ sở khai thác tốt tiềm năng lợi thế của tỉnh.
3) Thực hiện chương trình giảm nghèo đồng bộ với xây dựng nông thôn mới và thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, cơ cấu lao động, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông - lâm nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng đời sống văn hóa và xây dựng nông thôn mới … Tập trung đầu tư cho các huyện nghèo, xã nghèo, xã biên giới, xã đặc biệt khó khăn, thôn bản đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc, tích cực góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo nhanh và bền vững, sớm đưa Điện Biên ra khỏi tình trạng kém phát triển.
4) Trong giai đoạn 2011-2020, tập trung đẩy nhanh giảm nghèo trên địa bàn 04 huyện nghèo và các xã nghèo, xã biên giới.
2- Chủ trương, chính sách của địa phương về an sinh xã hội
2.1 Trong giai đoạn 1991-2013, Tỉnh uỷ, HĐND-UBND tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách cụ thể nhằm thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội trên địa bàn (Có phụ lục số 01 kèm theo).
Các chủ trương, chính sách có tính đặc thù của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh về an sinh xã hội:
+ Ban hành Chương trình Phát triển KT - XH vùng cao: Những năm qua, trên địa bàn của tỉnh nhiều chương trình dự án được đầu tư, cơ sở hạ tầng đã được xây dựng, song mới tập trung chủ yếu ở các vùng trọng điểm, trung tâm các xã, còn các thôn bản hầu như chưa được xây dựng. Mặt khác, xuất phát điểm về mọi mặt của tỉnh còn ở mức thấp, đời sồng nhân dân còn nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo cao; nhất là vùng sâu, vùng xa lại càng khó khăn hơn. Trước thực trạng đó Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lai Châu (cũ) nay là tỉnh Điện Biên đã ban hành Chương trình Phát triển KT - XH vùng cao giai đoạn 2001 - 2010[1], nhằm hỗ trợ các bản vùng cao ĐBKK xây dựng các công trình thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống hàng ngày của nhân dân trong bản. (Trong giai đoạn 2001 – 2010, bằng nguồn vốn của Chương trình và đóng góp của nhân dân đã xây dựng được 400 tuyến đường giao thông dân sinh với chiều dài 2.124,7 km; 110 công trình thuỷ lợi phục vụ tưới cho 352 ha lúa 1 vụ; 310 công trình nước sinh hoạt phục vụ cho 58.864 người; 73 lớp học bản với diện tích xây dựng 4.387m2 phục vụ cho việc dạy và học ở 73 bản; nhà văn hoá 22 công trình phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt văn hoá cộng đồng ở 22 bản).
+ Ban hành Chính sách trợ cấp nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội tỉnh: Do đặc thù tỉnh miền núi vùng sâu, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn; đối tượng bảo trợ xã hội tỉnh là trẻ em mồ côi được nuôi dưỡng tại Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh vẫn gặp khó khăn khi hết tuổi được nuôi dưỡng tại Trung tâm theo quy định của Chính phủ, tỉnh đã ban hành Nghị quyết của HĐND tỉnh và Quyết định của UBND tỉnh[2] về điều chỉnh thời gian và mức trợ cấp nuôi dưỡng, sinh hoạt phí cho đối tượng nuôi dưỡng tại Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh (được kéo dài thời gian nuôi dưỡng trong trường hợp đang theo học văn hóa, học nghề, học chuyên nghiệp cho đến khi tốt nghiệp và nâng mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng bằng 80% lương tối thiểu/người/tháng).
+ Chính sách hỗ trợ sản xuất Nông – Lâm nghiệp – Thủy sản: Nhằm khuyến khích, phát triển sản xuất Nông – Lâm nghiệp – Thủy sản đồng thời trang bị, củng cố kiến thức, kinh nghiệm làm ăn cho nông dân là đồng bào dân tộc thiểu số. Hội đồng nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành chính sách hỗ trợ sản xuất nông – lâm nghiệp – thủy sản trên địa bàn[3].
+ Chính sách thực hiện đề án xuất khẩu lao động tỉnh Điện Biên, giai đoạn 2007 – 2010: HĐND, UBND tỉnh đã phê duyệt Đề án xuất khẩu lao động[4] với cơ chế cho phép vận dụng chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho lao động nông thôn (theo Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ) để đào tạo nghề, ngoại ngữ miễn phí cho người lao động thuộc diện hộ nghèo, hộ chính sách và bộ đội xuất ngũ ở nông thôn, người lao động thuộc các xã đặc biệt khó khăn; hỗ trợ các trường hợp rủi ro như (Người lao động phải về nước trước thời hạn hợp đồng do chiến tranh, thiên tai, hỏa hoạn, cá nhân, tổ chức sử dụng lao động nước ngoài bị phá sản đươck hỗ trợ ba (03) triệu đồng; trường hợp người lao động bị chết mà không do lỗi của người lao động được hỗ trợ một lần bằng 03 (ba) tháng tiền lương tối thiểu hiện hành của Việt Nam; người lao động phải về nước trước thời hạn hợp đồng do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà không do lỗi của người lao động được hỗ trợ 01 (một) triệu đồng.
3- Đánh giá hệ thống chính sách an sinh xã hội đã ban hành
3.1- Tính thống nhất và độ bao phủ của hệ thống chính sách an sinh xã hội
* Mặt được của chính sách:
Công tác an sinh xã hội của tỉnh đã triển khai trên nhiều lĩnh vực an sinh và được triển khai đến tận cơ sở thôn, bản, tổ dân phố, trực tiếp đến từng người dân, tạo điều kiện cho nhân dân được thụ hưởng các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước, an sinh xã hội đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo và đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, góp phần nâng cao mức sống, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân trên địa bàn trên các mặt như chăm sóc sức khoẻ, tiếp cận giáo dục, đào tạo, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, nước sạch, vệ sinh môi trường, thông tin liên lạc, bảo đảm nhà ở tối thiểu…
* Mặt hạn chế của chính sách
- Hệ thống an sinh xã hội của cả nước và của tỉnh nói riêng đã phát triển nhưng chưa toàn diện, thiếu sự liên kết và hỗ trợ nhau giữa các chính sách an sinh xã hội. Một số chính sách an sinh xã hội còn tồn tại những bất hợp lý, mâu thuẫn, chồng chéo; chưa có nhiều các chính sách an sinh xã hội đặc thù và phù hợp với dân cư nông thôn và các vùng đông đồng bào dân tộc, những nơi có điều kiện sống khó khăn.
- Nguồn lực để thực hiện chính sách an sinh xã hội còn thiếu, các chính sách bị giàn trải, đối tượng thủ hưởng đông dẫn đến mức thụ hưởng các chính sách an sinh của người dân thấp, không được đồng bộ; Quá trình thiết kế, một vài chính sách chưa phù hợp với điều kiện thực tế của các địa phương có đặc điểm, điều kiện kinh tế, xã hội đặc thù.
* Nguyên nhân
- Chưa có sự đầu tư thích đáng cho công tác nghiên cứu, đề xuất chính sách; cơ quan quản lý chính sách an sinh xã hội còn dản trải cho nhiều ngành, lĩnh vực thực hiện;
- Công tác ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai chính sách thường chậm, hay thay đổi, điều chỉnh; việc dự báo các nguồn lực huy động cho chính sách an sinh xã hội thiếu chủ động, có chính sách không có nguồn ngân sách thực hiện.
3.2- Tác động của hệ thống an sinh xã hội
* Mặt được của chính sách
Trong những năm qua, công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trên địa bàn tỉnh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày càng đồng bộ và hoàn thiện trên các lĩnh vực: xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm, chế độ ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội, tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về văn hoá, y tế, giáo dục, thông tin truyền thông. Cùng với nguồn lực đầu tư hỗ trợ của Trung ương không ngừng tăng lên và những nỗ lực trong tổ chức thực hiện, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày càng được bảo đảm tốt hơn, góp phần quan trọng vào nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Đặt trọng tâm vào công tác xoá đói, giảm nghèo, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội để nâng cao mức sống chung của nhân dân, Tỉnh uỷ, HĐND-UBND tỉnh đã ban hành và tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều chính sách, chương trình, dự án và huy động nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp người nghèo, vùng nghèo vượt qua khó khăn, vươn lên thoát nghèo.
- Các chính sách và giải pháp xoá đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương diện: Giúp người nghèo tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở, nước sinh hoạt; Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm đất sản xuất, tín dụng ưu đãi, khuyến nông - lâm - ngư, phát triển ngành nghề; Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Đến nay công tác xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được các cấp, các ngành đánh giá cao: tỷ lệ hộ nghèo năm 1991 là 42,26%, năm 2000 là 31% và năm 2012 là 38,24%;
- Tỉnh đã tập trung chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm với nhiều chính sách trợ giúp thiết thực; trong giai đoạn 2001 – 2013, hàng năm giải quyết được hơn 8.370 việc làm mới cho người lao động, giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp từ 0,92% (năm 2001) xuống còn 0,71% (năm 2012), tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho nhân dân.
- Hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế được quan tâm phát triển với nội dung và hình thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho những người tham gia. Bảo hiểm xã hội được triển khai đồng bộ với 3 loại hình là: bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Số người tham gia bảo hiểm bắt buộc tăng nhanh, từ 8% (năm 1995) lên 12% (năm 2012). Sau hơn 5 năm triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện, đến năm 2013 có khoảng 500 người tham gia.
- Các chính sách trợ giúp xã hội, cả thường xuyên và đột xuất được thực hiện rộng hơn về quy mô, đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày càng tăng. Đến năm 2013, toàn tỉnh có 10.035 đối tượng xã hội được trợ cấp hàng tháng (tăng 9.656 đối tượng so với năm 2001).
- Hệ thống các dịch vụ xã hội trong các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân, giáo dục và đào tạo, thông tin truyền thông, nước sinh hoạt đã được quan tâm phát triển, nhất là ưu tiên đầu tư cho vùng cao khó khăn, vùng biên giới và vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Chất lượng các dịch vụ nhiều mặt được cải thiện và khả năng tiếp cận của nhân dân ngày càng được nâng cao.
* Mặt hạn chế của chính sách
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh còn nhiều hạn chế như:
- Công tác tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho nhân dân chưa đạt kết quả cao, tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn và thất nghiệp ở thành thị còn nhiều, công tác đào tạo nghề lao động nông thôn chưa đi vào thực chất, chưa tạo được nhiều việc làm cho đối tượng sau khi học nghề, công tác xuất khẩu lao động chưa thu hút được đông đồng bào các dân tộc trên địa bàn tỉnh tham gia.
- Công tác giảm nghèo tuy đạt được kết quả khả quan, xong tỷ lệ hộ nghèo, tình trạng tái nghèo vẫn ở mức cao và kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống còn nhiều khó khăn, khoảng cách thu nhập của các tầng lớp dân cư còn lớn.
- Công tác bảo hiểm xã hội còn một số yếu kém như: Sốngười tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện còn ít, nhất là với đối tượng thuộc hộ cận nghèo. Quản lý nhà nướcvề bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế chưa đáp ứng so với yêu cầu. Tình trạng doanh nghiệp nợ và không đóng bảo hiểm xã hội còn nhiều. Xử lý vi phạm sau thanh tra, kiểm tra chưa kiên quyết. Ý thức chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội ở một số đơn vị chưa nghiêm.
- Công tác trợ giúp xã hội thường xuyên và trợ giúp xã hội đột xuất tuy đã kịp thời, đúng đối tượng, tuy nhiên các mức trợ cấp, trợ giúp xã hội cơ bản vẫn là mức tối thiểu do trung ương quy định, tỉnh chưa có đủ nguồn lực đảm bảo hỗ trợ thêm cho các đối tượng này.
- Việc tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản của nhân dân:
+ Chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng trên địa bàn tỉnh còn cao và giảm chậm; tỷ lệ người tham gia BHYT nhất là BHYT tự nguyện cho hộ cận nghèo còn thấp.
+ Công tác quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo vẫn còn bất cập. Chất lượng giáo dục đào tạo không đồng đều, chậm được cải thiện giữa vùng cao và vùng thấp trong tỉnh; nội dung, chương trình đào tạo, phương pháp dạy và học chậm được đổi mới. Phát triển giáo dục đào tạo ở các xã đặc biệt khó khăn còn nhiều hạn chế;
+ Nhà ở tối thiểu cho nhân dân, nước sạch và vệ sinh môi trường, thông tin truyền thông tuy đã có những kết quả đáng ghi nhận, xong tỷ lệ nhân dân được tiếp cận với các dịch vụ này vẫn thấp hơn mặt bằng chung của cả nước.
* Nguyên nhân
- Nhận thức về bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội của một số cấp, ngành và một bộ phận nhân dân chưa đầy đủ, một số cán bộ vẫn coi công tác an sinh xã hội là việc của các nhà hoạch định chính sách, một bộ phận người dân nhất là người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo vẫn còn tư tưởng ỷ lại vào chế độ, chính sách của nhà nước, chưa có ý thức tự vươn lên thoát nghèo.
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện chính sách an sinh xã hội một số nơi còn nhiều yếu kém, bất cập, nhất là ở cấp cơ sở, xã, phường, thị trấn, hiệu lực hiệu quả công tác an sinh xã hội chưa cao, nhiều nơi còn có tình trạng lợi dụng chính sách an sinh xã hội để trục lợi cho bản thân và gia đình.
- Chưa hình thành được hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội rộng khắp trên địa bàn tỉnh với những cơ chế chủ động tích cực, bền vững, làm chỗ dựa vững chắc cho người nghèo, hộ nghèo tự vươn lên thoát nghèo.
- Chưa huy động được mạnh mẽ sự tham gia của toàn xã hội vào công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.
- Còn thiếu các giải pháp hữu hiệu để thu hẹp khoảng cách về mức sống và an sinh xã hội giữa vùng thấp và vùng cao trong tỉnh.
3.3- Độ bền vững của hệ thống tài chính
- Mặt được của chính sách
Trong những năm qua, để khắc phục tình trạng mất cân đối ngân sách, đồng thời đảm bảo phát triển hài hòa về kinh tế và xã hội, bố trí được nguồn lực phục vụ cho công tác an sinh, xã hội trên địa bàn tỉnh, tỉnh Điện Biên đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ như: đảm bảo nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản ngoài thuế được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả; phát triển nguồn thu mới để tăng thu cho ngân sách và chống thất thu thuế; cân đối các khoản chi, đi đôi với tiết kiệm trong chi tiêu và thực hiện chống tham ô, lãng phí tài sản của Nhà nước, bên cạnh đó tỉnh đã lập quỹ dự phòng ngân sách đảm bảo xã hội để đảm bảo hỗ trợ xã hội để có thể huy động nguồn lực hỗ trợ kịp thời khi có các vấn đề liên quan đến an sinh, xã hội xảy ra trên địa bàn; với những giải pháp đồng bộ, quyết liệt nguồn ngân sách của tỉnh được đảm bảo, không rơi vào tình trạng mất cân đối nghiêm trọng.
- Mặt hạn chế của chính sách
Các chính sách an sinh xã hội có độ phủ rộng, có sự đan xen lẫn nhau, việc thực hiện lồng ghép các chính sách an sinh chưa thật chặt chẽ, hạn chế sự phát huy hiệu quả các nguồn lực tài chính
Bên cạnh những kết quả đạt được của sự bền vững tài chính, việc triển khai đồng bộ các chính sách an sinh xã hội và rộng khắp trên địa bàn tỉnh làm cho nguồn lực đầu tư cho các chính sách an sinh bị giàn trải, không tập trung ảnh hưởng đến việc bố trí nguồn lực cho công tác an sinh xã hội ở mức quy định của trung ương, trong khi đó nguồn đóng góp từ cộng đồng còn hạn chế, nhất là đối với người nghèo, nông thôn và vùng có điều kiện khó khăn, làm cho các chế độ chính sách, an sinh xã hội đến với nhân dân ở mức thấp so với quy định, chưa đáp ứng được nhu cầu cần trợ giúp của nhân dân.
- Nguyên nhân
Trong thời gian vừa qua, nhu cầu chi ngân sách cho an sinh xã hội ngày càng tăng cao, do Chính phủ mở rộng các chính sách an sinh xã hội, sửa đổi, bổ sung đối tượng hưởng bảo trợ xã hội, điều chỉnh mức trợ cấp cho các đối tượng và hệ thống hoá các chính sách bảo trợ xã hội. Với tổng nhu cầu chi rất lớn, việc tăng cường thực hiện chính sách bảo trợ xã hội đã ngày càng gây sức ép đối với NSNN, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế xã hội khó khăn hiện nay. Là tỉnh nghèo (ngân sách do Trung ương hỗ trợ chiếm khoảng 90% ngân sách hàng năm của tỉnh, ngân sách tự chủ của tỉnh chỉ khoảng 10%) việc cân đối ngân sách thu chi để thực hiện các chính sách an sinh xã hội ngoài nguồn ngân sách trung ương đang đặt ra những khó khăn không nhỏ đối với ngân sách địa phương.
II- TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN GIAI ĐOẠN 1991-2013
1- Công tác phổ biến, quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng; tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của Nhà nước:
- Tỉnh Điện Biên luôn xác định để làm tốt được công tác an sinh xã hội trên địa bàn thì công tác phổ biến, quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác an sinh xã hội phải được đặt lên hàng đầu, với các hình thức tuyên truyền phong phú, có chất lượng, đi vào chiều sâu và hướng về cơ sở.
Đối với các chính sách an sinh xã hội tác động đến bộ phận lớn dân cư, mang tính chất quan trọng Tỉnh uỷ đều tổ chức phổ biến, quán triệt chủ trương, chính sách đến đội ngũ cán bộ chủ chốt của tỉnh; UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ngành, huyện, thị, thành phố tổ chức tuyên truyền, phổ biến nội dung chính sách đến đông đảo nhân dân được biết và tham gia.
2- Công tác hướng dẫn, tổ chức thực hiện
Các sở, ngành chức năng của tỉnh đã tích cực hướng dẫn, triển khai các chế độ, chính sách về an sinh xã hội, tập trung vào 3 nhóm chính sách trụ cột của an sinh xã hội là: phát triển bảo hiểm xã hội cho người lao động; thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách bảo hiểm y tế; tổ chức thực hiện kịp thời các chính sách bảo trợ xã hội, chính sách hỗ trợ giảm nghèo.
3- Kết quả cụ thể
3.1- Phòng ngừa rủi ro: hỗ trợ tạo việc làm, tạo thu nhập và tham gia thị trường lao động có thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững.
3.1.1- Tạo việc làm, nâng cao thu nhập
Tạo việc làm, nâng cao thu nhập, góp phần xóa đói, giảm nghèo một cách bền vững, giảm sức ép lên thực hiện công tác an sinh xã hội; trong thời gian qua các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh đã có nhiều chủ trương, chính sách để tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho nhân dân, giai đoạn 1991-2012, đã giải quyết việc làm mới cho khoảng 23.633 lao động. Thông qua kết quả giải quyết việc làm mới hàng năm đã góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh nói chung và tỷ lệ thất nghiệp trong khu vực thành thị nói riêng.
Công tác giải quyết việc làm thông qua dự án vay vốn giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động được chú trọng, quan tâm :
- Dự án cho vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm: Tổng nguồn Quỹ cho vay Trung ương cấp cho tỉnh quản lý từ năm 1992 đến thời điểm hiện nay là 61.593,82 triệu đồng (trong đó, Trung ương cấp cho UBND tỉnh là 56.667 triệu đồng và thông qua các đoàn thể Trung ương quản lý là 4.926,82 triệu đồng). Sau 20 năm thực hiện, thông qua nguồn vốn cho vay của Quỹ, bình quân mỗi năm đã tạo việc làm mới cho trên 1.000 lao động và tạo thêm việc làm cho hàng nghìn lao động mỗi năm.
- Giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động: Được triển khai thực hiện từ năm 2005, sau hơn 8 năm thực hiện tính đến tháng 8/2013 toàn tỉnh đã có 932 lao động xuất cảnh sang làm việc tại các thị trường Hàn Quốc, Malaysia, Nhật Bản, UAE và CHDCND Lào.
* Công tác dạy nghề không ngừng được củng cố và quan tâm
Đào tạo nghề là một trong những chính sách có tác động trực tiếp tới đảm bảo an sinh xã hội, nhất là đối với nhóm lao động nông thôn, lao động nghèo. Giai đoạn (1998-2012), cùng với hệ thống dạy nghề trong cả nước, công tác đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh Điện Biên được phục hồi và có bước phát triển mạnh, bước đầu đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, góp phần tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo. Mạng lưới cơ sở dạy nghề được phát triển nhanh, rộng khắp trên toàn tỉnh. Năm 1998, từ một tỉnh còn "trắng" về dạy nghề, đến nay trên địa bàn tỉnh Điện Biên có 13 cơ sở dạy nghề (01 trường cao đẳng nghề, 07 trung tâm dạy nghề công lập cấp huyện và 05 đơn vị khác có chức năng dạy nghề). Quy mô dạy nghề tăng nhanh; năm 2005 dạy nghề cho 3.200 người, đến năm 2010 tăng trên 7.400 người, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 16,41% năm 2005 lên 29,51% năm 2010 (trong đó lao động qua đào tạo nghề là 13,5%). Đã tổ chức dạy nghề cho người dân tộc thiểu số, bộ đội xuất ngũ, người nghèo, lao động nông thôn..., góp phần xóa đói giảm nghèo và nâng cao mức sống cho người lao động. Chất lượng và hiệu quả dạy nghề có bước chuyển biến tích cực (khoảng trên 70% học viên học nghề tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, ở một số nghề và một số cơ sở dạy nghề tỷ lệ này đạt trên 85%). Các điều kiện bảo đảm chất lượng dạy nghề đã từng bước được cải thiện.
3.2- Giảm thiểu rủi ro: sự tham gia của người dân vào các hoại hình bảo hiểm
- Bảo hiểm xã hội: là trụ cột trong chính sách an sinh xã hội, trong những năm qua công tác BHXH được quan tâm, thực hiện, Tỉnh uỷ đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về công tác BHXH, UBND tỉnh ban hành Chỉ thị, quyết định thực hiện chính sách BHXH, công tác BHXH trên địa bàn đã đạt được những kết quả khả quan: số lao động tham gia BHXH, BHYT ngày một tăng, cuối năm 1995 có 298 đơn vị với 16.130 lao động tham gia BHXH, đến năm 2013 tăng lên 1.548 đơn vị (519%) với 35.103 lao động tham gia BHXH (217.6%). Từ năm 2009 đến năm 2013, vận động thêm được 208 đơn vị ngoài quốc doanh và 1.275 lao động tham gia BHXH, nâng tổng số đơn vị đang quản lý là 368 đơn vị với 2.538 lao động tham gia BHXH (đạt trên 50% trên tổng số đơn vị doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện có trên địa bàn tỉnh).
Kết quả thu BHXH qua các năm đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao từ 2-11%, số thu năm sau cao hơn năm trước. Tổng số thu BHXH bắt buộc từ năm 1995 đến năm 2013 đạt: 1.436.000 triệu đồng[5]. Giai đoạn 1995-2013, BHXH tỉnh đã tổ chức chi trả với số tiền ước đạt 3.925.757 triệu đồng cho 6.945.538 lượt người hưởng các chế độ BHXH, BHYT, số chi năm sau cao hơn năm trước.[6] Việc giải quyết các chế độ chính sách BHXH được thực hiện nghiêm túc, giải quyết kịp thời chế độ BHXH cho người dân. Từ năm 1995-2013, BHXH tỉnh đã tiếp nhận và giải quyết chế độ cho 13.916 đối tượng,[7] thực hiện xét duyệt chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe (DSPHSK) cho 135.625 lượt người với số tiền 196.740 triệu đồng.[8]
- Chính sách BHXH tự nguyện được triển khai từ tháng 6/2008, số người tham gia tăng lên theo các năm. Năm 2008 có 94 người tham gia, với số tiền 127 triệu đồng, đến tháng 9 năm 2013 có 500 người tham gia với số tiền 1.550 triệu đồng, tăng 12,2 lần so với 2008. Chính sách BHTN thực hiện từ 01/01/2009 với 20.038 lao động tham gia. Đến năm 2013, có 25.328 lao động trong diện bắt buộc tham gia (gấp 1.26 lần), chiếm 9% lực lượng lao động tham gia ước thu năm 2013 đạt 27.000 triệu đồng, tăng 2.6 lần so với năm 2009).
- Công tác bảo hiểm thất nghiệp được quan tâm triển khai ngay từ khi chính sách Bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực thi hành năm 2009, số lượng lao động tham gia BHTN tăng qua từng năm; năm 2010 là 8,56%; năm 2011 là 8,93%; năm 2012 trên địa bàn tỉnh đã có 24.861 người lao động (bằng 8,75% tổng số lao động trên địa bàn) tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp, đạt 100% số lao động thuộc đối tượng phải tham gia đóng BHTN; tính đến ngày 30/6/2013, trên địa bàn tỉnh đã có 238 lao động được hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp với số tiền trợ cấp là 1.480.799.685 đồng (bình quân 6.221.847 đồng/lao động).
3.3- Khắc phục rủi ro: Trợ giúp xã hội thường xuyên, trợ giúp xã hội đột xuất.
Các chính sách trợ cấp trợ giúp xã hội, cả thường xuyên và đột xuất được triển khai thực hiện rộng hơn về quy mô, đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày càng tăng..
- Công tác trợ giúp xã hội thường xuyên được thực hiện kịp thời, đầy đủ, đúng chế độ, chính sách; các đối tượng chính sách xã hội và bảo trợ xã hội như người tàn tật, người già cô đơn, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn thường xuyên được sự giúp đỡ của chính quyền, cộng đồng và các tổ chức xã hội; công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được các cấp, các ngành chỉ đạo thực hiện có hiệu quả.
Giai đoạn 2001-2013, tỉnh Điện Biên đã trợ cấp xã hội thường xuyên cho 45.014 lượt người, kinh phí 67.685 triệu đồng (bình quân trợ cấp 3.462 người/năm). Số đối tượng bảo trợ xã hội đến năm 2013, toàn tỉnh có 10.035 đối tượng xã hội được trợ cấp hàng tháng (tăng 9.656 đối tượng so với năm 2001), trong đó: Tại cộng đồng 9.838 đối tượng là trẻ em mồ côi, người khuyết tật, người cao tuổi cô đơn, người cao tuổi trên 80 tuổi không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội…; nuôi dưỡng tập trung tại các cơ sở bảo trợ xã hội 197 trẻ em mồ côi (Làng trẻ em SOS 127 cháu, Trung tâm bảo trợ xã hội 70 cháu); Hỗ trợ chỉnh hình, PHCN, trang cấp DCCH, cấp thẻ BHYT: Tính riêng trong giai đoạn 2006 - 2012 đã tiến hành phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng với 1.480 ca phẫu thuật cho 935 trẻ em khuyết tật, trang cấp 273 xe lăn, xe lắc đo khám và cấp chân giả cho 68 đối tượng xã hội; cung cấp 170 máy trợ thính, 80 đôi nạng...
Bên cạnh nguồn kinh phí hàng năm từ ngân sách Nhà nước chăm lo cho đối tượng người có công và bằng nguồn vốn vận động từ cộng đồng. Trong những năm qua phong trào chăm sóc người có công được quan tâm thường xuyên qua các chương trình tình nghĩa như xây dựng nhà tình nghĩa; tặng quà cho gia đình chính sách nhân dịp lễ, tết, thăm hỏi các cán bộ lão thành cách mạng hàng năm được tổ chức triển khai đạt kết quả đáng ghi nhận; năm 2013, đã hỗ trợ 184 hộ gia đình người có công với cách mạng về nhà ở với kinh phí 4.442,1 triệu đồng; Quỹ Đền ơn đáp nghĩa cũng được cán bộ công chức và nhân dân ủng hộ đóng góp ngày một tăng.
* Là tỉnh đặc biệt khó khăn, thường xuyên bị lũ lụt, lốc xoáy, tỷ lệ thiếu đói hàng năm cao, công tác cứu trợ đột xuất được xác định tập trung vào công tác cứu đói và khắc phục thiên tai, mất mùa, trong những năm qua công tác trợ giúp xã hội đột xuất đã được triển khai một cách khẩn trương, kịp thời, hiệu quả.
Từ năm 1991-2013, đã tổ chức cứu đói giáp hạt cho 273.898 lượt hộ bằng 1.533.452 lượt người, với số gạo bằng 10.073 tấn, ngoài ra trợ cấp bằng tiền là 83,387 tỷ đồng (trong đó: cứu đói tết cho 35.583 hộ với 166.740 khẩu, kinh phí 10.501 triệu đồng). Cứu trợ khác theo Quyết định 81/QĐ-TTg năm 2009 là 31.059 hộ, bằng 155.491 khẩu, kinh phí 26.419 triệu đồng. Cứu trợ thiên tai, động đất, lũ lụt cho 24.893 hộ với số tiền là 13.345 triệu đồng. Công tác cứu trợ đột xuất của tỉnh được triển khai kịp thời, hiệu quả đã giúp một bộ phần người dân gặp không may ổn định cuộc sống, khắc phục sự cố để vươn lên tạo dựng lại cuộc sống.
3.4 – Các dịch vụ xã hội cơ bản: Bảo hiểm y tế và đảm bảo y tế tối thiểu; đảm bảo giáo dục tối thiểu; đảm bảo nhà ở tối thiểu; đảm bảo nước sạch; đảm bảo tiếp cận thông tin
3.4.1 Bảo hiểm y tế và đảm bảo y tế tối thiểu:
- Bảo hiểm y tế
Tỉnh đã tổ chức thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế, với đặc thù của địa phương đa số nhân dân thuộc diện đóng bảo hiểm y tế bắt buộc theo Quyết định 139 (trong giai đoạn từ năm 2002- 2009) và theo Luật Bảo hiểm y tế (từ năm 2009 đến nay). Tính riêng trong giai đoạn 2006 – 2010 hằng năm tỉnh đã thực hiện mua, đóng thẻ BHYT cho 1.604.033 lượt người nghèo, người dân tộc thiểu số cư trú tại vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn (bình quân cấp 320.000 thẻ BHYT/năm); trong giai đoạn 2011 đến tháng 6/2013 tỉnh đã thực hiện cấp 1.007.593 lượt người nghèo, cận nghèo và các đối tượng bảo trợ xã hội khác... Tỷ lệ dân số tham gia BHYT của tỉnh đã tăng từ 88,2% (năm 2010) lên 98,2% (năm 2012).
- Đảm bảo y tế tối thiểu
Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe trên địa bàn tỉnh ngày càng phát triển dưới nhiều hình thức như việc thiết lập các tổ, đội y tế lưu động đi khám, chữa bệnh, thực hiện các hoạt động phòng bệnh theo định kỳ ở các thôn, bản, hệ thống các trung tâm Y tế các huyện, thị, thành phố được đầu tư mới, sửa chữa khang trang, hiện đại, đội ngũ cán bộ y tế ngày càng được nâng cao về chuyên môn, nghiệp vụ, các trạm y xã, phường, thị trấn cơ bản đã đảm bảo thực hiện việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân, trung bình mỗi trạm tế có từ 5-6 cán bộ; tỷ lệ Bác sỹ tại các xã đạt khoảng 25%.
Hàng năm đã khám chữa bệnh cho trên 900.000 lượt bệnh nhân, trung bình 1 người dân được khám 1,81 lượt/năm; điều trị nội trú cho trên 65.000 lượt, điều trị ngoại trú cho trên 5000 lượt, kê đơn cấp thuốc tuyến xã cho trên 396.000 lượt;
Hệ thống y tế dự phòng đã tích cực giám sát dịch bệnh, không để dịch bệnh lớn xảy ra. Các chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình mục tiêu quốc gia về phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS; vệ sinh an toàn thực phẩm, dân số kế hoạch hoá gia đình; nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đã được triển khai đồng bộ và đem lại hiệu quả.
Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vắc xin không ngừng tăng; năm 2012 đạt 93,5% tăng 14,12% so với năm 1993 (79,38%); Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm qua từng năm; năm 2007 là 25,5%; năm 2010 là 22,97%; năm 2012 còn 21,17%; tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi giảm, năm 2012 còn 36,8‰; kiểm soát và khống chế thành công các vụ dịch trên địa bàn, không có dịch lớn xảy ra; chất lượng công tác giám sát phát hiện người nhiễm HIV/AIDS được nâng cao, tỷ lệ nhiễm HIV/dân số là 0,75%. Tuổi thọ trung bình của người dân tăng, từ 66,3 tuổi năm 2010 lên 66,8 tuổi năm 2012.
- Trong giai đoạn 2006-2010, ngành y tế được các Dự án hỗ trợ như: Dự án Phòng chống HIV/AIDS cho thanh niên, Dự án Hỗ trợ phát triển hệ thống y tế dự phòng, Dự án Hỗ trợ chăm sóc sức khỏe người nghèo cho các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên do EC viện trợ (HEMA), Dự án Bạn hữu trẻ em (do UNCEF tài trợ), Chương trình giảm tử vong mẹ và trẻ sơ sinh (do Chính phủ Hà Lan viện trợ), Dự án Hỗ trợ y tế các tỉnh miền núi phía Bắc (sử dụng vốn vay Ngân hàng Thế giới), Dự án Tăng cường phòng chống sốt rét dựa vào cộng đồng tập trung vào các nhóm có nguy cơ cao, nâng cao năng lực và tính bền vững của Chương trình phòng, chống Sốt rét Quốc gia (do Quỹ toàn cầu phòng chống AIDS, Lao và Sốt rét tài trợ), Dự án Tăng cường năng lực hệ thống y tế cơ sở một số tỉnh trọng điểm (do GAVI tài trợ) và Dự án Dự phòng, chăm sóc và điều trị HIV/AIDS tỉnh Điện Biên (do Tổ chức Sức khoẻ gia đình quốc tế - FHI tài trợ...), đặc biệt từ năm 2008 trở lại đây, trung bình mỗi năm các dự án đã hỗ trợ khoảng 47-50 tỷ đồng, đây là nguồn lực quan trọng cho thực hiện các mục tiêu phát triển sự nghiệp của Ngành y tế.
3.4.2- Đảm bảo giáo dục tối thiểu.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, đoàn thể xã hội, sự nghiệp giáo dục đào tạo của tỉnh có những bước phát triển vững chắc, toàn diện; đã thực hiện thắng lợi mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ vào năm 2000, phổ cập giáo dục THCS năm 2008, đạt chuẩn phổ cập giáo dục TH ĐĐT mức độ 1 năm 2009, hệ thống cơ sở vật chất, trường , lớp học được đầu tư khang trang, chất lượng giáo viên ngày càng được chuẩn hóa, chất lượng đào tạo ngày càng được nâng cao:
- Quy mô mạng lưới trường lớp ngày càng mở rộng, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đã từng bước được cải thiện và nâng cấp, thu hút hầu hết trẻ em trong độ tuổi tới trường. Nếu năm 1991, toàn tỉnh chỉ có 23 trường mầm non với 227 lớp và 8.639 học sinh, 167 trường PTCS với 45.518 học sinh tiểu học và THCS, 8 trường THPT với 1.503 học sinh, cơ sở vật chất trường lớp hầu hết là tranh tre, nứa lá, trang thiết bị hầu như không có gì thì đến Đến năm học 2013 - 2014, toàn tỉnh Điện Biên có 491 trường, 6.978 lớp và 157.458 học sinh.[9] Phần lớn các trường học đã được xây dựng kiên cố với 7.350 phòng học.[10]
- Các loại hình đào tạo từng bước được đa dạng hóa, bước đầu đáp ứng nhu cầu học tập của con em các dân tộc trong tỉnh. Công tác giáo dục dân tộc tiếp tục được quan tâm, hệ thống trường phổ thông DTNT được mở rộng về quy mô, nâng cấp về cơ sở vật chất và ngày càng khẳng định chất lượng giáo dục toàn diện.[11]
- Trong những năm cuối của thập kỷ 80, toàn tỉnh vẫn còn 53.000 người ở độ tuổi 15-25 tuổi chưa biết chữ, tỷ lệ mù chữ ở các dân tộc thiểu số rất cao: Mông: 88%, Dao: 75%, Thái 61%... Số học sinh huy động ra lớp hàng năm tăng không đáng kể (từ 1,5% đến 2,5%). Tỷ lệ trẻ từ 6 đến 11 tuổi vào học lớp 1 chỉ đạt 43%. Trong khi đó số học sinh lưu ban và bỏ học còn nhiều: 15% đến 20%, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Đến năm học 2013-2014, tỷ lệ huy động trẻ 0-2 tuổi ra lớp đạt 12,5%, trẻ 3-5 tuổi ra lớp đạt 92,4%; trẻ 5 tuổi đạt 98%, tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 98,6%, trẻ 6-10 tuổi học tiểu học đạt 98,2%, tỷ lệ huy động trẻ 11 tuổi vào lớp 6 đạt 91, học sinh 11-14 tuổi học THCS đạt 79,2%, tỷ lệ trẻ 15 tuổi vào lớp 10 đạt 40,1%; học sinh 15-18 tuổi học THPT đạt 51,9%.
- Cùng với phát triển mạng lưới trường lớp, chất lượng giáo dục toàn diện cũng từng bước được nâng cao, đã bước đầu bắt kịp và hòa nhập với giáo dục cả nước. Năm học 2012-2013, tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt 99,1% , tỷ lệ học sinh được công nhận tốt nghiệp THCS đạt 99,5%; tỷ lệ tốt nghiệp THPT đạt 94,13%, Bổ túc THPT đạt 63,41% .
Công tác tuyên truyền, hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS bước đầu được thực hiện tốt. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS vào học THPT, Bổ túc THPT đạt 75%; học sinh theo học nghề tại địa phương hoặc các tỉnh lân cận chiếm khoảng 3,5%; học sinh vào học hệ trung cấp tại các trường chuyên nghiệp của tỉnh chiếm 9,4%; số còn lại tham gia lao động sản xuất và dịch vụ. Đa dạng hóa các ngành nghề và hình thức đào tạo trong các trường cao đẳng phù hợp với đối tượng và đặc điểm tình hình của địa phương; mở rộng liên kết với các trường đại học; thực hiện tốt công tác hợp tác đào tạo với Trung Quốc, Lào theo Đề án hợp tác đào tạo của tỉnh ….
- Đội ngũ giáo viên từ chỗ thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, không đồng bộ về cơ cấu thì đến nay đã đảm bảo đội ngũ đủ về số lượng, chuẩn về trình độ đào tạo bằng nhiều biện pháp như: Tự học, tự bồi dưỡng, bồi dưỡng tập trung, bồi dưỡng chuẩn hóa, liên kết đào tạo, bồi dưỡng theo các chuyên đề nâng cao chu kỳ 1992-1996, 1997-2000 và bồi dưỡng thay sách Tiểu học, THCS, THPT, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.[12]
Hiện nay, công tác phổ cập Giáo dục tiểu học - Chống mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ trong tỉnh được duy trì vững chắc.[13] Chất lượng phổ cập GDTH ĐĐT tiếp tục được nâng cao.[14]
Những kết quả đạt được trong công tác phổ cập giáo dục trong những năm qua giúp nâng cao trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
3.4.3. Đảm bảo nhà ở tối thiểu
- Trong 3 năm (2006-2008). Hỗ trợ nhà ở cho 15.617 hộ, kinh phí 80.561 triệu đồng, đạt 89,65% kế hoạch chương trình (Trong đó: Thực hiện QĐ 134 là 14.995 nhà, kinh phí 82.472 triệu đồng; Quỹ "Đền ơn đáp nghĩa" thực hiện 80 nhà, kinh phí 1.637 triệu đồng; Quỹ " Ngày vì người nghèo" thực hiện 502 nhà, kinh phí 3.752 triệu đồng; Ngân hàng Đầu tư và Phát triển hỗ trợ 40 nhà, kinh phí 700 triệu đồng).
- Trong 2 năm (2009-2010): Toàn tỉnh đã triển khai thực hiện làm nhà cho hộ nghèo theo Quyết định số: 167/2008/QĐ-TTg được 10.131/13.404 hộ (đạt 75,58% Chương trình), với tổng kinh phí thực hiện 223.583,4 triệu đồng (từ ngân sách Nhà nước 86.385,8 triệu đồng; huy động cộng đồng, doanh nghiệp 65.094 triệu đồng; vốn tín dụng ưu đãi 72.010 triệu đồng). Đến 30/9/2013, đã có 13.250/13.364 hộ gia đình được hỗ trợ làm nhà theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg làm xong nhà (đạt 99,14%).
- Để đảm bảo cho con, em các dân tộc trên địa bàn yên tâm học tập, hệ thống kí túc xá các trường trung cấp, cao đẳng phục vụ chỗ ở cho học sinh, sinh viên trên địa bàn được chú trọng, quan tâm đầu tư; năm 2009, tỉnh đã bố trí 65.413 triệu đồng để xây dựng nhà ở kí túc xá cho các trường Cao đẳng, trung cấp trên địa bàn, tuy nhiên do ngân sách của tỉnh còn khó khăn nên chưa thể cân đối được nguồn vốn này.
3.4.4- Đảm bảo nước sạch
Hệ thống cung cấp nước sinh hoạt cho người dân, nhất là người dân nông thôn vùng sâu, vùng xa được cải thiện, cùng với sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước thông qua chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường, hàng vạn hộ dân trên địa bàn tỉnh được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh, bên cạnh đó sự hợp tác, phối hợp với các tổ chức quốc tế như UNICEF và các tổ chức phi chính phủ đã góp phần đảm bảo cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân trên địa bàn.
Từ 1995 đến năm 2012, tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh tăng qua các năm, năm 2012 là 72 % dân số được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh tăng 37% so với năm 1995 (khoảng dưới 35%).
3.4.5- Đảm bảo tiếp cận thông tin
Công tác đảm bảo tiếp cận thông tin đã có những bước chuyển biến trong thời gian qua, tỷ lệ xã miền núi, vùng xa, biên giới trên địa bàn tỉnh được phủ sóng phát thanh truyền hình mặt đất không ngừng tăng:
- Sóng truyền hình mặt đất chưa phủ sóng đến các xã trên địa bàn tỉnh năm 1991, đến năm 2012 tỷ lệ sóng truyền hình mặt đất đã phủ sóng đạt 85% các xã trên địa bàn tỉnh;
- Sóng phát thanh phủ sóng đạt 100% các xã trên địa bàn năm 2012, tăng 79% so với năm 1991 (21%).
3.5- Một số mô hình, điển hình về thực hiện chính sách an sinh xã hội trong thời gian qua trên địa bàn (phụ lục 2).
- Chương trình Phát triển KT - XH vùng cao giai đoạn 2001 - 2010, nhằm hỗ trợ các bản vùng cao ĐBKK xây dựng các công trình thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống hàng ngày của nhân dân trong bản. (Trong giai đoạn 2001 – 2010, bằng nguồn vốn của Chương trình và đóng góp của nhân dân đã xây dựng được 400 tuyến đường giao thông dân sinh với chiều dài 2.124,7 km; 110 công trình thuỷ lợi phục vụ tưới cho 352 ha lúa 1 vụ; 310 công trình nước sinh hoạt phục vụ cho 58.864 người; 73 lớp học bản với diện tích xây dựng 4.387m2 phục vụ cho việc dạy và học ở 73 bản; nhà văn hoá 22 công trình phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt văn hoá cộng đồng ở 22 bản)
- Chính sách trợ cấp nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội tỉnh: Từ năm 2009 đến năm 2013, tỉnh đã thực hiện hỗ trợ theo mức trợ cấp xã hội mới đối với trẻ em mồ côi được nuôi dưỡng tại Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh với trung bình 70 trẻ/năm. Mức trợ cấp theo quy định của tỉnh đã đáp ứng đủ điều kiện ăn, ở, sức khỏe, dinh dưỡng đối với trẻ em mồ côi, đảm bảo chế độ ăn, sinh hoạt tương đương với hộ gia đình có mức sống trung bình ngoài cộng đồng; trẻ em mồ côi được tiếp cận tốt hơn về các dịch vụ y tế, giáo dục; đã có 23 trẻ em mồ côi được đi học chuyên nghiệp, học nghề trước khi trở về cộng đồng.
- Chính sách hỗ trợ sản xuất Nông – Lâm nghiệp – Thủy sản: Hằng năm đã thực hiện hỗ trợ giống cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày, cây công nghiệp dài ngày, cây dược liệu, cây ăn quả, hỗ trợ chăn nuôi phát triển thủy sản … với kinh phí hỗ trợ bình quân 15 – 18 tỷ đồng/năm. Qua thực hiện chính sách đã thu hút việc làm, tăng thu nhập đồng thời trang bị, củng cố kiến thức, kinh nghiệm làm ăn cho nông dân là đồng bào dân tộc thiểu số phát triển tăng gia theo hướng sản xuất hàng hóa.
- Chính sách hỗ trợ xuất khẩu lao động: cùng với các chính sách khác do Chính phủ mới ban hành và chính sách hỗ trợ huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động, trong giai đoạn từ 2005 đến 2013 có 932 lao động xuất cảnh sang làm việc tại các thị trường Hàn Quốc, Malaysia, Nhật Bản, UAE và nước CHDCND Lào.
4- Đánh giá tình hình thực hiện chính sách an sinh xã hội
4.1- Những thành tựu chủ yếu
- Trên cơ sở hệ thống chính sách, luật pháp về an sinh xã hội được ban hành, các sở ngành đã tham mưu kịp thời cho Tỉnh uỷ, HĐND-UBND tỉnh thông qua các kế hoạch, chương trình cụ thể để triển khai thực hiện (như Chương trình Dạy nghề, Giải quyết Việc làm, Kế hoạch Giảm nghèo; thực hiện việc làm nhà theo QĐ 167/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; phối hợp mở lớp chiêu sinh cho thanh niên nông thôn học nghề theo Quyết định 1956, …) nhằm cụ thể hóa các hoạt động, đưa chính sách vào cuộc sống, đã phát huy hiệu lực, hiệu quả của chính sách an sinh xã hội, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
- Các chính sách và giải pháp xoá đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương diện: Giúp người nghèo tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, nhà ở, nước sinh hoạt; Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về tín dụng ưu đãi, khuyến nông - lâm - ngư; Phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu cho xã, phường, thị trấn. Đến nay công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được các cấp, các ngành và nhân dân ghi nhận: hộ nghèo cuối năm 2010 là 51.644 hộ chiếm tỉ lệ 50,01%, đến cuối năm 2013 ước còn 38.987 hộ, chiếm tỷ lệ 35,06%. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh được nâng lên rõ rệt.
4.2- Những hạn chế chủ yếu
Tuy nhiên, việc bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội vẫn còn bất cập và yếu kém:
- Các chính sách an sinh xã hội còn chồng chéo, phân tán dẫn đến hiệu quả công tác an sinh xã hội ở một số mặt chưa cao.
- Công tác xoá đói, giảm nghèo chưa bền vững, số hộ cận nghèo còn nhiều, tỷ lệ hộ tái nghèo hàng năm còn cao, vẫn còn tư tưởng ỷ lại trong một bộ phận hộ nghèo, người nghèo. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, khoảng cách thu nhập của các tầng lớp dân cư còn lớn.
- Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn, ở vùng cao, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số còn cao.
- Các chính sách an sinh xã hội với diện bao phủ và mức hỗ trợ thấp, chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm các quy định về ASXH chưa thường xuyên; đội ngũ cán bộ làm công tác ASXH còn thiếu về số lượng và yếu về tính chuyên nghiệp.
- Chất lượng cung cấp các dịch vụ an sinh xã hội, đặc biệt là dịch vụ y tế, còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và sự gia tăng mức sống của dân cư. Một số chính sách an sinh xã hội còn tồn tại những bất hợp lý; chưa có các chính sách an sinh xã hội đặc thù và phù hợp với dân cư nông thôn và các vùng dân tộc, miền núi có điều kiện sống khó khăn. Hệ thống hành chính, sự nghiệp cung cấp dịch vụ an sinh xã hội của tỉnh chưa theo kịp yêu cầu phát triển, còn hạn chế trong năng lực tổ chức và quản lý đối với các loại hình an sinh xã hội.
- Các hình thức bảo hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân; thiếu các chế tài buộc doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ đóng góp BHXH, BHYT cho người lao động.
4.3- Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế
4.3.1- Nguyên nhân của thành tựu
- Sự lãnh đạo chỉ đạo kịp thời của Tỉnh uỷ, sự giám sát của HĐND tỉnh và sự chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh; các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị đã vào cuộc một cách quyết liệt làm cho công tác an sinh xã hội đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
- Hệ thống pháp luật về an sinh xã hội có tính nhất quán trên cơ sở chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Phạm vi điều chỉnh của các văn bản chính sách an sinh xã hội bao quát nhiều lĩnh vực.
4.3.2- Nguyên nhân của hạn chế
- Những hạn chế trên do:
+ Hệ thống văn bản pháp luật về an sinh xã hội với nhiều loại văn bản quy phạm có giá trị khác nhau, khiến việc áp dụng pháp luật, tuyên truyền, phổ biến gặp khó khăn, bên cạnh đó tính dự liệu, tính khả thi của các văn bản pháp luật về an sinh còn thấp dẫn đến văn bản dễ lạc hậu, phải sửa đổi thường xuyên. Mức độ bao phủ của các chính sách thấp, khả năng tiếp cận của nhiều đối tượng còn hạn chế; một số chính sách mới (BH thất nghiệp, BHXH tự nguyện…) còn bất cập;
+ Sự nhận thức chưa đầy đủ về công tác an sinh xã hội của một bộ phận lãnh đạo, nhất là ở cấp cơ sở dẫn đến việc triển khai các chính sách an sinh xã hội chưa đúng, đủ, chưa phát huy được tính ưu việt của chính sách.
+ Nguồn lực thực hiện bảo đảm an sinh xã hội của tỉnh còn hạn chế, chủ yếu vẫn phải dựa vào ngân sách Nhà nước, chưa khuyến khích người dân và các đối tác xã hội tích cực chủ động tham gia.
+ Hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác an sinh xã hội trên địa bàn vừa thiếu, vừa yếu, hoạt động không có hiệu quả, các văn bản pháp quy hiện hành thiếu cơ chế giám sát đánh giá hiệu quả; chế tài xử phạt chưa đủ mạnh.
+ Là một tỉnh miền núi nghèo, kinh tế có xuất phát điểm thấp; tư liệu sản xuất chủ yếu dựa vào tài nguyên đất, tuy nhiên tỷ lệ đất tự nhiên có thể đưa vào canh tác, sản xuất thấp (chủ yếu là đất đồi dốc không thể canh tác được), hệ thống hạ tầng thiết yếu về giao thông, thủy lợi chưa được đầu tư đồng bộ.
4.4- Những bài học kinh nghiệm
Một là, cần nhận thức đầy đủ công tác an sinh xã hội là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân; thực hiện công tác an sinh xã hội đảm bảo nguyên tắc đúng đối tượng, đầy đủ và kịp thời. Để làm được việc đó cần phải tăng cường sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp với công tác an sinh xã hội; thường xuyên kiện toàn, bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ các cấp để thực hiện tốt công tác an sinh xã hội trên địa bàn.
Hai là: Cần đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với giải quyết việc làm.
- Khuyến khích tối đa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh để tạo nhiều việc làm, đồng thời hỗ trợ người dân có việc làm, tăng thu nhập là giải pháp xoá đói giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội tích cực, hiệu quả, bền vững.
- Tiếp tục thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia về thực hiện Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 (theo Quyết định 1956), với các giải pháp toàn diện, đồng bộ và có hiệu quả, thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ cho vay ưu đãi học nghề, hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ, phụ nữ, thanh niên…; đẩy mạnh việc tuyên truyền cho nhân dân công tác xuất khẩu lao động.
Ba là: Cần làm tốt công tác BHXH, đẩy mạnh việc phát triển các hình thức BHXH, cả bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách về bảo hiểm y tế, viện phí và khám chữa bệnh. Đặc biệt chú trọng chính sách đối với bà mẹ, trẻ em, người nghèo, cận nghèo, bảo trợ xã hội, người có công.
Bốn là: Cần thực hiện có đồng bộ hiệu quả kế hoạch giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020 của địa phương, Các chính sách và giải pháp xoá đói giảm nghèo phải thiết thực, đồng bộ cả về hỗ trợ phát triển sản xuất và đời sống, tạo việc làm, nâng cao khả năng tự vươn lên thoát nghèo bền vững của người dân. Phải bảo đảm lồng ghép có hiệu quả các chương trình, dự án và nguồn lực ở địa bàn từng thôn, bản; sự tham gia chủ động của người dân và cộng đồng, gắn với phát triển xã nông thôn mới.
Năm là: Cần thực hiện tốt các chính sách ưu đãi đối với người có công và chính sách trợ giúp xã hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội theo quy định, đẩy mạnh xã hội hoá, đa dạng các hình thức trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội tự nguyện, nhân đạo dựa vào cộng đồng và doanh nghiệp, huy động sự tham gia của toàn xã hội để thực hiện tốt an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.
Sáu là: Phải không ngừng quan tâm, trợ giúp mọi người dân được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu về khám chữa bệnh, học hành, nhà ở, điện, nước sinh hoạt, văn hoá, thông tin và truyền thông, bảo đảm vệ sinh môi trường, đi lại…
[1] - Nghị quyết số: 02/NQ-TU của BCH tỉnh Đảng bộ Lai Châu và Nghị quyết số 22/2001/NQ-HĐ ngày 03/8/2001 của Hội đồng nhân dân tỉnh khoá XI, kỳ họp thứ 5 về phát triển KT-XH vùng cao giai đoạn 2001-2010.
[2] Nghị quyết số 163/2009/NQ-HĐND ngày 14/7/2009 của HĐND tỉnh; Quyết định số 09/2009/QĐ-UBND ngày 27/7/2009 của UBND tỉnh;
[3] Nghị quyết số 194/2010/NĐ-HĐND ngày 16/7/2010 của Hội đồng nhân dân tỉnh; Quyết định số 11/2010/QĐ-UBND ngày 30/7/2010 của UBND tỉnh.
[4] Nghị quyết số 88/2007/NQ-HĐND và theo Quyết định số 548/QĐ-UBND ngày 29/5/2007 của UBND tỉnh Điện Biên
[5] (6 tháng cuối năm 1995 thu 5.100 triệu đồng; Uớc năm 2013 thu BHXH đạt 300.000 triệu đồng, đạt 102% kế hoạch năm giao, tăng 58,8 lần so với năm 1995).
[6] Năm 1995 chi 9.242 triệu đồng cho 13.314 đối tượng. Đến hết năm 2013, ước chi 756.461 triệu đồng cho 830.321 lượt đối tượng (số chi tăng gấp gần 82 lần so với năm 1995).
[7] Trong đó: Hưu hàng tháng: 4.359 hồ sơ; Trợ cấp 1 lần: 2.391 hồ sơ; Hưu chờ: 275 hồ sơ; TNLĐ hàng tháng: 117 hồ sơ; TNLĐ 1 lần: 28 hồ sơ; Tuất hàng tháng: 1.570 hồ sơ; Tuất 1 lần: 1.703 hồ sơ; Mai táng phí: 909 hồ sơ; Trợ cấp hàng tháng cán bộ xã (09/CP): 119 hồ sơ; Trợ cấp khu vực 1 lần: 2.445 hồ sơ.
[8] Trong đó: Ốm đau 88.149 lượt người với số tiền 29.656 triệu đồng; Thai sản 21.940 lượt người với số tiền 154.707 triệu đồng; DSPHSK 25.536 lượt người với số tiền 12.379 triệu đồng.
[9] trong đó: Mầm non 163 trường, 1.927 lớp và 41.213 trẻ; tiểu học 173 trường, 3.218 lớp và 63.281 học sinh; THCS 114 trường với 1.276 lớp và 36.398 học sinh; THPT 29 trường với 501 lớp và 15.877 học sinh; 08 TT GDTX, 01 TT KTTH-HN, 02 TT NN-TH, 04 trường cao đẳng.
[10] trong đó: 4.132 phòng kiên cố (56,2%), 1.721 phòng bán kiên cố (23,4%), 1.497 phòng tạm (20,4%); số phòng công vụ 2.524 phòng, đáp ứng 54,6%; số phòng ở nội trú 2.524 phòng, đáp ứng 60% nhu cầu. Toàn ngành có 149 trường đạt chuẩn quốc gia, trong đó Mầm non 41 trường, có 8 trường chuẩn mức độ 2; Tiểu học 71 trường, có 10 trường chuẩn mức độ 2; THCS 34 trường; THPT 03 trường.
[11] Năm học 2013-2014, toàn ngành có 8 trường PT DTNT, 67 trường PT DTBT (trong đó cấp Tiểu học 28 trường, THCS 39 trường) và có 134.241/157.458 học sinh dân tộc chiếm 85,26%. Hệ thống GDTX phát triển gồm 01 TT GDTX tỉnh, 07 TT GDTX huyện, 2 trung tâm ngoại ngữ - tin học và các trung tâm học tập cộng đồng đáp ứng nhu cầu học tập của cán bộ và nhân dân lao động ở khắp các địa phương trong tỉnh. Từ năm 1992 đến nay, trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật, Cao đẳng Sư phạm Điện Biên và Trung tâm GDTX tỉnh đã liên kết đào tạo với các trường Cao đẳng, Đại học mở 166 lớp cho 13.132 học viên, trong đó đã tốt nghiệp 91 lớp, 7.613 học viên, hiện đang học 75 lớp với 5.559 học viên.
[12] Năm học 2013-2014, toàn ngành có 15.757 cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên với 4.137 đảng viên. Số giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn cấp mầm non đạt tỉ lệ 99,99 % ; cấp tiểu học đạt tỉ lệ 99,99 %; cấp THCS đạt tỉ lệ 94 %; cấp THPT đạt tỉ lệ 97 %.
[13] Tính đến tháng 5/2013, có 112/112 đơn vị cấp xã, 9/9 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn và duy trì đạt chuẩn phổ cập GDTH - CMC, đạt tỷ lệ 100%. Tổng số người 15-25 tuổi biết chữ: 114208/117184, tỷ lệ 97.5%. Tổng số người 26-35 tuổi biết chữ: 85996/91966 tỷ lệ 93.51%. Tổng số người từ 36 đến 60 tuổi biết chữ: 103075/136627, tỷ lệ 75.4%.
[14] Tính đến 31/5/2013, toàn tỉnh có 9/9 huyện, thị, thành phố (chưa tách riêng các xã, huyện Nậm Pồ) đạt chuẩn phổ cập GDTH đúng độ tuổi. Số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập GDTH đúng độ tuổi: 112/112 (100%) trong đó có 50/112 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập GDTH ĐĐT mức độ 2 (44,6%). Củng cố, duy trì vững chắc các mục tiêu phổ cập giáo dục THCS. Tổ chức kiểm tra tình hình thực hiện công tác phổ cập giáo dục THCS trong toàn tỉnh. Kết quả năm 2012: 112/112 (100%) đơn vị xã, phường, thị trấn duy trì đạt chuẩn; 9/9 (100%) đơn vị cấp huyện duy trì đạt chuẩn.