Ths.LÊ THỊ HỒNG THUẬN
Khoa Lý luận chính trị - Đại học Kinh tế quốc dân
DĐ: 0977266982 - Email: thuanlth.neu@gmail.com
Ths. NGUYỄN THÙY LINH
Khoa Lý luận chính trị - Đại học Kinh tế quốc dân
DĐ: 0986846507 – Email: thuylinh.hg1988@gmail.com
Số lượng khách du lịch đến Việt Nam ngày càng tăng, ngành du lịch đang phát triển với kỳ vọng sẽ dẫn đầu nền kinh tế quốc dân. Nhu cầu về nguồn nhân lực được đào tạo tốt trong ngành du lịch đang tăng lên nhanh chóng. Nhưng một trong những nội dung chính trong đào tạo là phát triển năng lực nghề nghiệp cho người học đang gặp nhiều trở ngại. Do đó, nhiệm vụ cấp bách hiện nay là xây dựng và triển khai khung năng lực nghề nghiệp trong đào tạo cùng với sự hiểu biết tích cực về thực trạng và các giải pháp để nâng cao năng lực nghề nghiệp cho sinh viên ngành du lịch.
Từ khóa: nhân lực ngành du lịch, năng lực nghề nghiệp, sinh viên ngành du lịch
1. Cơ sở lý luận [CC1]
Khung năng lực (hoặc hồ sơ năng lực) là tập hợp các năng lực: kiến thức, kỹ năng và đặc điểm cá nhân tương ứng. Đó là một công cụ để tuyển dụng và phát triển đào tạo nguồn nhân lực, lãnh đạo và lập kế hoạch quản lý, tiêu chí để đánh giá ứng viên và đánh giá năng lực của nhân viên. Khung năng lực thường bao gồm: Năng lực đặc thù của vai trò; Năng lực cốt lõi; Năng lực kỹ thuật.
Năng lực nghề nghiệp là toàn bộ đặc điểm tâm lý và sinh lý của con người để đáp ứng yêu cầu của nghề nghiệp. Năng lực nghề nghiệp được hình thành và phát triển thông qua giáo dục, học tập và lao động, trong đó thành phần kỹ năng thực tế là biểu hiện cao nhất [3].
Xem xét đánh giá năng lực nghề nghiệp về nhiều mặt, từ các yếu tố chủ quan đến khách quan, bên trong và bên ngoài, phân tích mối quan hệ giữa chúng. Năng lực nghề nghiệp là quá trình các cá nhân hình thành và phát triển các kỹ năng và năng lực để giải quyết một loạt các xung đột nghề nghiệp.
Dựa trên nền tảng mục tiêu giáo dục của đất nước: Ở Việt Nam, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được đánh giá cao. Giỏi để xây dựng đất nước Việt Nam với tinh thần yêu nước, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, kiến thức về sức khỏe, lao động tốt, văn hóa cuộc sống, tình yêu đích thực, và tinh thần cập nhật khoa học công nghệ đổi mới và ứng dụng trong sản xuất và quản lý. Luật Giáo dục đã cụ thể hóa: Mục tiêu của giáo dục là đào tạo người Việt Nam phát triển kiến thức toàn diện, đạo đức, y tế, thẩm mỹ và chuyên nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng tính cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng các yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước [1].
Dựa trên bối cảnh trong nước và quốc tế và yêu cầu nghề nghiệp; về sức mạnh của cơ sở vật chất, đào tạo trường học.
Dựa trên Tâm trí - Sinh lý và nhu cầu, nguyện vọng của người học: Về mặt sinh học, phát triển năng lực chuyên môn là tạo ra một loạt các phản xạ có điều kiện, giúp cá nhân thay đổi hành vi và thích nghi để phù hợp với nhu cầu và điều kiện công việc. Quá trình phát triển nghề nghiệp phải dựa trên một cơ sở tâm lý nhất định. Nếu các cá nhân có đặc điểm tâm lý phù hợp với một nghề nghiệp cụ thể, việc phát triển năng lực chuyên môn sẽ dễ dàng hơn nhiều cho cá nhân. Đồng thời, sự phát triển năng lực chuyên môn của sinh viên không thể tách rời khỏi cơ sở lý thuyết và nội dung giáo dục nghề nghiệp của trường. Đó là một hệ thống ảnh hưởng giáo dục nhằm mục đích định hình, phát triển và cải thiện phẩm chất và khả năng của lực lượng lao động.
Dựa trên các mối quan hệ xã hội: Phát triển nghề nghiệp là quá trình các cá nhân nhận được các giá trị và chuẩn mực của xã hội và tham gia vào quá trình xã hội hóa.
Có được năng lực chung trên toàn thế giới: Đó là tiêu chí so sánh với thực tiễn, thực tiễn tốt nhất được quốc tế công nhận; là mẫu số chung tốt nhất hoặc ngôn ngữ chung để thúc đẩy lợi ích của cộng đồng khu vực và thế giới;
Khung năng lực lao động du lịch Việt Nam
(1) Khung năng lực đối với lao động phục vụ du lịch theo Tiêu chuẩn chung trong ASEAN về nghề du lịch (ACCSTP)
Thỏa thuận Thừa nhận lẫn nhau về nghề du lịch trong ASEAN (MRA-TP) chính thức có hiệu lực từ ngày 31/12/2015, cho phép thúc đẩy dịch chuyển tự do lao động du lịch trong các nước thành viên ASEAN. Để thực hiện MRA-TP, các nước thành viên ASEAN cùng phải triển khai xây dựng và đào tạo nhân lực du lịch theo khung chương trình chung (CATC) và tiêu chuẩn chung về năng lực cần có trong du lịch (ACCSTP).
Hình 1: Mô hình năng lực yêu cầu đồi với nhân lực du lịch trong ASEAN [3]
Trên cơ sở khảo sát, nghiên cứu các mô hình và các lựa chọn về đào tạo theo năng lực của nhiều nước trên thế giới như Scotland, Indonesia, Canada, Vương quốc Anh, Singapore, Philippines, Pháp, New Zealand… và đặc điểm của các nước thành viên ASEAN, ACCSTP được hình thành và thông qua với 242 tiêu chuẩn năng lực (hay đơn vị năng lực). Trong khung năng lực ACCSTP, các năng lực được phân loại thành ba nhóm: Năng lực cốt lõi, Năng lực chung và Năng lực chức năng.
(2) Tiêu chuẩn kỹ năng nghề nghiệp du lịch Việt Nam (VTOS)
Với sự hỗ trợ của Liên minh Châu Âu, thông qua Dự án ESRT, VTOS đã được ban hành trong giai đoạn 2007-2009, được sửa đổi và bổ sung từ cách tiếp cận dựa trên nhiệm vụ để truy cập (Dựa trên năng lực): VTOS 2013. Ngoài ra, có cách tiếp cận mới, hiện đại, xu hướng phát triển phù hợp trong đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch,VTOS 2013 tương thích với ACCSTP. Điểm mấu chốt trong cấu trúc VTOS 2013 là cách tiếp cận năng lực, tập trung vào hệ thống năng lực cần có ở mỗi học viên, đảm bảo mối liên kết giữa bí quyết và khả năng.VTOS 2013 bao gồm 241 đơn vị năng lực: Đơn vị cốt lõi, Đơn vị chung; Các đơn vị chức năng; Đơn vị quản lý; Các đơn vị du lịch có trách nhiệm.
Hình 2: Khung năng lực nhân lực du lịch theo tiêu chuẩn VTOS 2013 [3]
(3) Khung năng lực đối với lao động ngành du lịch theo Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia 2017.
Tháng 10 năm 2016, Khung trình độ quốc gia Việt Nam (VQF) được Chính phủ ban hành. Sau một thời gian thẩm định, đánh giá, điều chỉnh, Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia của các nghề Lễ tân và Phục vụ buồng do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức xây dựng đã được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chính thức công bố ban hành vào ngày 31 tháng 8 năm 2017. Theo chỉ đạo của Phó Thủ tưởng Vũ Đức Đam, tiêu chuẩn của các nghề khác trong du lịch đang đoực tiếp tục rà soát, hoàn hiện để ban hành.
Theo quy định tại Tiêu chuẩn, khung năng lực cần có của người lao động du lịch, trong đó có cả các lao động ở trình độ đại học, bao gồm các nhóm được trình bày tại bảng 1 dưới đây:
Bảng 1. Khung năng lực yêu cầu đối với lao động du lịch theo Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia ban hành tháng 8 năm 2017 [2]
STT
|
Khung năng lực cần thiết của cử nhân du lịch
|
Mô tả các thành phần
|
1
|
Năng lực cốt lõi
|
- Bao gồm các đơn vị năng lực phổ biến nhất, cần thiết, đòi hỏi hầu hết người lao động phải có để làm việc thuần thục (ví dụ: thực hiện sơ cứu cơ bản, làm việc hiệu quả trong nhóm, công nghệ thông tin…), tương tự “kĩ năng sống”, “kĩ năng mềm
|
2
|
Năng lực chung
|
Là những năng lực chung, có liên quan và cần thiết cho một nhóm các nghề trong du lịch (ví dụ: phát triển mối quan hệ khách hàng; lập kế hoạch, quản lí và tổ chức các cuộc họp; chuẩn bị làm việc; xử lí phàn nàn; quản lí nhân sự; quản lí tài chính; quản lí hành chính; dịch vụ khách hàng và quản lí marketing; áp dụng các nguyên lí du lịch có trách nhiệm...). Trong nhóm này có thể chia thành các nhóm nhỏ sau:
- Đơn vị năng lực chung - phổ biến: là các năng lực cho một nhóm các công việc bao gồm các năng lực công việc chung bắt buộc cho một số các ngành nghề (ví dụ: sức khỏe và an toàn), cũng như các năng lực cụ thể áp dụng cho các nghề cụ thể (ví dụ: kết thúc ca làm việc).
- Đơn vị năng lực quản lí: là các năng lực chung cho các vị trí trong một đơn vị có liên quan tới quản lí, giám sát hay có ảnh hưởng nhất định tới công việc của người khác. Năng lực này có thể là cụ thể cho từng vị trí công việc (như giám sát viên lễ tân) hay chung cho tất cả các vị trí quản lí/giám sát (tuyển dụng, lựa chọn và giữ nhân viên)… Bao gồm các đơn vị năng lực quản lí tài chính, quản lí nhân sự, dịch vụ khách hàng và quản lí marketing, quản lí hành chính, quản lí an ninh
- Đơn vị năng lực du lịch có trách nhiệm: là những kĩ năng cụ thể cần thiết cho việc vận hành và quản lí tại đơn vị nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và sản phẩm hướng tới phát triển du lịch bền vững, hoạt động và xây dựng các sản phẩm du lịch có trách nhiệm
|
3
|
Năng lực chức năng
|
Là các năng lực cụ thể cho từng vị trí công việc trong ngành du lịch để người lao động thực hiện có hiệu quả công việc của vị trí nghề (ví dụ: giám sát hoạt động của bộ phận lễ tân; quản lí dịch vụ đồ vải trong cơ sở lưu trú du lịch…)
|
2. Thực trạng phát triển năng lực nghề nghiệp cho sinh viên du lịch
Du lịch Việt Nam hiện nay thiếu nguồn nhân lực có trình độ. Theo Tổng cục Du lịch Việt Nam, trong hai quý đầu năm 2018, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt 7,89 triệu lượt, tăng 27,2% so với cùng kỳ năm 2017. Khách du lịch nội địa ước tính khoảng 42,8 triệu lượt. Tổng doanh thu từ khách đạt 312 nghìn tỷ đồng, tăng 22,5% so với cùng kỳ năm 2017. Năm 2017, Việt Nam đón 12,9 triệu lượt khách quốc tế, tăng 29,1% so với năm 2016 [3].
Hiện tại, có hơn 1,3 triệu lao động du lịch trên toàn quốc, chiếm 2,5% tổng lực lượng lao động trên toàn quốc; trong đó chỉ có 42% được đào tạo về du lịch, 38% được đào tạo trong các lĩnh vực khác và 20% không được đào tạo chính thức. Do đó, số lượng lao động chuyên nghiệp, kỹ năng cao vừa thiếu vừa yếu, nhưng số lượng lao động không đáp ứng được yêu cầu là quá nhiều. Theo Tổng cục Du lịch Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng như hiện nay, yêu cầu đào tạo bổ sung mỗi năm cho 25.000 công nhân mới và phải đào tạo lại số lượng tương tự [3].
Theo Báo cáo của Tổng cục Du lịch Việt Nam về tình trạng chất lượng nguồn nhân lực du lịch, tại Việt Nam, tỷ lệ nhân viên có chuyên môn và kỹ năng về du lịch vẫn còn thấp, chỉ chiếm 43% tổng số nhân viên du lịch mà hơn [CC2]một nửa trong số họ không biết ngoại ngữ. Năng suất lao động trong ngành du lịch của Việt Nam chỉ bằng 1/15 của Singapore, 1/10 của Nhật Bản và 1/5 của Malaysia ...[4].
Nhận xét về nguồn nhân lực hiện tại, Giám đốc điều hành khách sạn Daewoo Hà Nội Erwin R. Popov nhận xét: "Trên thực tế, nhiều nhân viên của chúng tôi được tuyển dụng mặc dù được đào tạo dài hạn tại các trường đại học và cao đẳng, vẫn phải đào tạo hoặc đào tạo thêm các kỹ năng, ngoại ngữ. Theo [CC3]Erwin R. Popov, ở các nước phát triển, thời gian giữa học lý thuyết và thực hành là 50 đến 50, tương đương với 24 tháng thực hành trong môi trường thực tế, trong khi ở Việt Nam chỉ có hai kỳ thực tập với 4 tháng nên các học viên thiếu kỹ năng làm việc.[CC4][LT5] [CC6][LT7][LT8]Đó là chưa kể nhiều trường đào tạo không được biết đến, không thể liên kết với các khách sạn sao, vì vậy họ chỉ cho sinh viên đi thực tập ở những nơi không đạt tiêu chuẩn. Do đó, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch không nhất quán, không chuẩn. Có thể nói, gần 90% sinh viên tốt nghiệp khách sạn không có kỹ năng chuyên môn [3].
Có 62 trường đại học, 80 trường cao đẳng (bao gồm 8 trường cao đẳng dạy nghề), 117 trường trung học cơ sở (12 trường dạy nghề), 2 công ty đào tạo và 23 trung tâm dạy nghề đã tham gia đào tạo lao động chuyên nghiệp du lịch [5]. Số lượng cơ sở đào tạo nhân lực ngành du lịch còn khá khiêm tốn so với nhu cầu phát triển của ngành. Nhu cầu nhân lực của ngành Du lịch ngày càng tăng. Cụ thể dự báo năm 2020 tăng 40% so với năm 2015. Trong đó, nhu cầu nhân lực có trình độ trên đại học được dự báo chiếm 0.7%; trình độ đại học, cao đẳng chiếm 15%; trình độ trung cấp chiếm 13%; trình độ sơ cấp chiếm 22.3% và trình độ dưới sơ cấp chiếm 49%. Ngoài ra, dự báo nhu cầu nguồn nhân lực ngành Du lịch theo vị trí làm việc và ngành nghề kinh doanh đến năm 2020 cũng tăng đáng kể.
Bảng 1: Dự báo nhu cầu nhân lực ngành du lịch đến năm 2020 [6]
Chỉ tiêu
|
Số lượng (người)
|
Tỉ lệ (%)
|
1. Trình độ trên đại học
|
6.100
|
0.70
|
2. Trình độ đại học, cao đẳng
|
130.500
|
15.00
|
3. Trình độ trung cấp
|
113.110
|
13.00
|
4. Trình độ sơ cấp
|
194.000
|
22.30
|
Hầu hết các tỉnh và thành phố đều có trung tâm đào tạo du lịch ngắn hạn. Tuy nhiên, các cơ sở đào tạo chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh ... Do tính chất của ngành, đào tạo nên dựa trên kiến thức lý thuyết để sinh viên có thể kết nối với thực tế, nhưng các cơ sở đào tạo thường thiếu thiết bị cho khóa học. Điều này gây khó khăn cho sinh viên học tập và ảnh hưởng đến chất lượng năng lực làm việc của họ khi tốt nghiệp. Các chương trình và phương pháp đào tạo không tập trung vào các kỹ năng mềm và phát triển nhân cách, trong khi đây là những điều cần thiết để thực hiện hiệu quả. Giáo viên tại các cơ sở đào tạo vừa thiếu vừa yếu. [CC9]Hầu hết các giáo viên trong các cơ sở đào tạo không có kinh nghiệm thực tế, vì vậy ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.
Mỗi năm, ngành du lịch cần 40.000 nhân viên, nhưng số lượng sinh viên tốt nghiệp tại các cơ sở đào tạo nghề là khoảng 15.000, trong đó hơn 12% có bằng cao đẳng [CC10]và đại học. Nguồn lao động trong lĩnh vực du lịch không phải là thiếu về số lượng, mà còn là điểm yếu về chuyên môn. Chất lượng nguồn nhân lực do các cơ sở đào tạo cung cấp cho thị trường du lịch không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Báo cáo tổng hợp về tình trạng nguồn nhân lực Việt Nam trong những năm qua cho thấy, nhân viên có trình độ đại học và cao học chiếm 9,7%, trình độ sơ cấp, trung học, cao đẳng là 51%, thấp hơn trình độ sơ cấp là 39,3%... trong đó chỉ có 43% công nhân được đào tạo chuyên nghiệp về du lịch [6].
Dựa trên nhu cầu chuyên môn của nguồn nhân lực du lịch và hiện trạng nguồn nhân lực chuyên nghiệp chất lượng cao của ngành du lịch hiện nay, các giải pháp cần được phát triển ở mọi phương diện, từ sinh viên đến trường học, từ doanh nghiệp đến cơ quan quản lý nhà nước, từ ngắn hạn đến dài hạn, để nâng cao năng lực nghề nghiệp của sinh viên để đáp ứng nhu cầu và yêu cầu cao trong phát triển nguồn nhân lực du lịch của Việt Nam.
3. Một số giải pháp nâng cao năng lực nghề nghiệp cho sinh viên ngành du lịch.
Về phía sinh viên ngành du lịch: [CC11]Yếu tố đầu tiên là nỗ lực của mỗi sinh viên, ý thức tự giác trong việc tự học, tự nghiên cứu, tìm hiểu về lĩnh vực chuyên môn của mình.
Sinh viên cần tự xây dựng mục tiêu học tập và kế hoạch học tập cụ thể theo từng tuần, từng tháng, từng kỳ. So sánh mục tiêu của mình với chuẩn đầu ra của ngành đào tạo để có những sự điều chỉnh cho phù hợp, đảm bảo có thể đám ứng được chuẩn đầu ra về năng lực chuyên môn cũng như năng lực nghề nghiệp.
Sinh viên ngành du lịch cũng cần có kế hoạch tự trau dồi các kỹ năng mềm, đặc biệt là khả năng giao tiếp. Kỹ năng giao tiếp được coi là một yêu cầu bắt buộc đối với nhân lực ngành du lịch. Việc tham gia vào các lớp học về kỹ năng “mềm” sẽ giúp cho sinh viên tự tin hơn, giúp sinh viên nâng cao năng lực nghề nghiệp của mình. Những kỹ năng này sinh viên có thể trau dồi thông qua quá trình học, quá trình thực tập, thực hành nghề nghiệp, làm thêm và kể cả khi bước vào môi trường làm việc thực sự.
Hiện nay kỹ năng mềm sinh viên ngành Du lịch rất yếu kém, nhiều tác động bên ngoài dễ làm thay đổi định hướng học tập của các em, những băn khoăn suy nghĩ không biết mình đã chọn nghề đúng hay chưa? Tốt nghiệp ra trường có dễ tìm việc không? Các doanh nghiệp cần sinh viên những kỹ năng sống cơ bản gì? Tại sao điều kiện đầu tiên ở nhiều đơn vị tuyển dụng thường là cần người có kĩ năng mềm sinh viên tốt, và với đặc thù của ngành du lịch thì kỹ năng mềm sinh viên là rất cần thiết và quan trọng.
Kỹ năng giao tiếp giữa mọi người: Đối với một người làm ngành du lịch, công việc đầu tiên là phải có kĩ năng giao tiếp, bởi tính chất công việc này là tiếp xúc, hướng dẫn trực tiếp cho du khách về địa điểm mà mình hướng dẫn khách, hơn hết kĩ năng giao tiếp sẽ giúp cho người hướng dẫn viên ứng biến với các tình huống bất trắc xảy ra một cách nhanh nhất hiệu quả nhất và ổn thỏa nhất. Để có những kĩ năng này trước hết sinh viên cần phải có một kiến thức chuyên môn tốt sau đó là sự tự tin của bản thân, trở thành một hướng dẫn viên chuyên nghiệp.
Kỹ năng thuyết trình trước đám đông: Một trong những nhiệm vụ quan trọng của người hướng dẫn viên du lịch chính là truyền tải thông tin đến du khách. Một hướng dẫn viên du lịch giỏi nghiệp vụ vừa phải nắm bắt được tâm lý du khách, vừa phải thông thuộc các kỹ năng thuyết trình và phải tạo được sự truyền cảm trong những bài thuyết trình.
Kỹ năng làm chủ cảm xúc: Là một người hướng dẫn viên du lịch, công việc giống như là “làm dâu trăm họ”, phải luôn luôn trong tâm thế vui vẻ, cởi mở, thoải mái để phục vụ du khách được tốt nhất. Bạn phải luôn luôn điềm tĩnh trước mọi tình huống, dù có xảy ra chuyện gì cũng phải giữ thái độ lịch thiệp với du khách. Bạn phải tạo cho du khách sự an tâm và thoải mái khi đồng hành với mình. Đây chính là một kỹ năng mềm cần thiết mà sinh viên phải luôn cố gắng trau dồi để thành công trong công việc này.
Sự tinh tế trong quan sát: Điều này nói ra nghe có vẻ bình thường, nhưng thực ra nó lại là một kỹ năng khá quan trọng. Quan sát không chỉ là nhìn, mà phải là “nắm bắt” – nhìn và thu nhận được gì. Giao tiếp ứng xử không phải lúc nào cũng được thực hiện qua ngôn ngữ nói, mà nhiều khi là một cử chỉ, là một ánh mắt, là một cái nhíu mày, hay cái bĩu môi,… Nếu là người giỏi quan sát, bạn sẽ thấy trong hàng chục khuôn mặt có thể có những nét biểu cảm khác nhau, bạn sẽ “đo” được chỉ số cảm xúc của khách đang như thế nào, từ đó sẽ giúp bạn điều chỉnh ứng xử để thay đổi cảm xúc du khách theo hướng tích cực hơn.
Kỹ năng tổ chức sắp xếp: Những tour du lịch trong công ty bạn thường được lên kế hoạch sắp xếp cụ thể về địa điểm, thời gian… để thể hiện sự chuyên nghiệp của những người làm du lịch và thuận tiện hơn cho người hướng dẫn. Nhưng không vì thế mà bạn cứ đinh ninh rằng chỉ cần làm theo bảng kế hoạch là được. Không phải chuyến đi nào cũng đều thuận lợi như ý muốn, sẽ có những trục trặc nhỏ về thời gian hay thay đổi về vấn đề gì đó buộc bạn cần phải linh hoạt thay đổi lịch trình và ứng biến thật nhanh chóng không để du khách phải đợi lâu vì nguời hướng dẫn của họ lúng túng không biết phải làm gì tiếp theo.
Vốn ngoại ngữ: Trong thời kì hội nhập như hiện nay, mọi bạn trẻ nên giữ cho mình vốn ngoại ngữ để trở thành một người trẻ hiện đại văn minh, và đương nhiên sinh viên du lịch thì không thể thiếu rồi. Với thời kì hội nhập và phát triển như hiện nay, du lịch Việt Nam đã và đang phát triển, khách nước ngoài biết đến nước ta nhiều hơn với nhiều địa điểm du lịch hấp dẫn, vì vậy để trở thành một hướng dẫn viên chuyên nghiệp bạn cần phải trau dồi vốn tiếng Anh của mình và các thứ tiếng khác tùy vào lượng khách du lịch đến với Việt Nam là nước nào. Ngoại ngữ là yếu tố cơ sở nhất cho ngành hướng dẫn viên du lịch.
Kỹ năng ứng biến/xử lý tình huống: Dù có lên kế hoạch chu đáo và hoàn mỹ đến đâu, thì trên những chặng hành trình thực tế không phải lúc nào cũng suôn sẻ như ta mong đợi – nhất là đối với những hành trình du lịch khám phá hoặc du lịch mạo hiểm. Vì vậy, kỹ năng ứng biến hay có thể gọi là kỹ năng “phản ứng nhanh” sẽ giúp cho người hướng dẫn viên luôn làm chủ được tình thế khi có những rủi ro ngoài mong đợi xảy ra.
Tăng cường sự giúp đỡ của bạn bè, người thân và phát huy truyền thống gia đình. Trong quá trình học tập và thực hành, sinh viên sẽ gặp nhiều khó khăn, có thể không tự giải quyết được. Vì vậy, sự hỗ trợ rất có ý nghĩa để thúc đẩy sinh viên vượt qua khó khăn, thích nghi với cuộc sống và thực hành nghề nghiệp. Nó là cần thiết để phát huy truyền thống gia đình. Nếu gia đình có truyền thống hoạt động, suy nghĩ và phẩm chất nghề nghiệp, cũng có ảnh hưởng đến sinh viên, việc truyền kinh nghiệm gia đình sẽ giúp sinh viên tự tin hơn, dễ thích nghi hơn với quá trình học tập và thực hành.
Về phía các cơ sở đào tạo du lịch: Cần cải thiện cơ sở vật chất của cơ sở đào tạo như lớp học, ký túc xá, thư viện và internet để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người học cũng như quá trình giảng dạy của giảng viên.
Bên cạnh đó, cũng đòi hỏi sự tham gia của các tổ chức dựa trên trường học, tư vấn cho học sinh hiểu mục đích, giá trị nền tảng của môn học, tổ chức các hoạt động ngoại khóa để tăng cường sự hiểu biết về trao đổi môn học. Giáo dục trong tổ chức hội sinh viên, đoàn thanh niên củng cố hiệu quả của công đoàn thấm nhuần giáo dục môn học.
Xây dựng và phát triển mạng lưới các cơ sở đào tạo, giảng viên và quản trị viên. Phối hợp với các bộ, ngành liên quan trong việc điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo du lịch, đảm bảo sự tương thích với sự phát triển của từng khu vực. Đầu tư vào các trường thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đ[CC12]ể đào tạo nhân lực du lịch ở tất cả các cấp độ đào tạo tại nhiều trung tâm du lịch trọng điểm tại Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang và Đà Lạt, Vũng Tàu, Cần Thơ. Đồng thời, thành lập phòng đào tạo du lịch tại các trường dạy nghề địa phương để khuyến khích mở cơ sở đào tạo du lịch tại các doanh nghiệp, cơ sở ngoài công lập và đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam nhằm đa dạng hóa hơn các hình thức trường học, lớp học, trung tâm và cơ sở đào tạo và đào tạo lại du lịch. Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và các bộ, ngành liên quan phát triển một tiêu chuẩn về các trường đào tạo du lịch để xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên đào tạo nguồn nhân lực về số lượng và cơ cấu. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo và đào tạo lại giảng viên của các cơ sở đào tạo du lịch. Đào tạo trong nước, các chuyên gia nước ngoài và giảng viên về du lịch trong các cơ quan hoạch định chính sách, viện nghiên cứu và các cơ sở giáo dục và đào tạo. Thu hút công chức, cán bộ, quản lý, doanh nhân, nghệ nhân, chuyên gia, công nhân kỹ thuật lành nghề ... tham gia đào tạo du lịch. Đào tạo đội ngũ thẩm định viên, giám sát viên, huấn luyện viên và sử dụng hiệu quả đội ngũ này trong các hoạt động du lịch.
Nâng cao trình độ công nghệ thông tin, ngoại ngữ, phương pháp giảng dạy cho giảng viên để[CC13] có thể tự dạy, học, trao đổi chuyên môn với các chuyên gia nước ngoài, tham gia các hội nghị, diễn đàn hội thảo, diễn đàn trong nước và quốc tế.
Ngoài ra, các nội dung và chương trình đào tạo cần phải đổi mới để cải thiện các kỹ năng thực tế về nguồn nhân lực du lịch. Du lịch Việt Nam đã đặt tiêu chuẩn kỹ năng du lịch tại Việt Nam làm tiêu chuẩn giảng dạy tại các trường du lịch. Tuy nhiên, tiêu chuẩn này nên được áp dụng và thống nhất trong quá trình giảng dạy, nên được coi là một hướng dẫn trong đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo nguồn nhân lực du lịch gắn liền với nhu cầu của doanh nghiệp phải theo hướng nâng cao kỹ năng thực tế để đạt được tiêu chuẩn chuyên nghiệp, khu vực và quốc tế. Từ quan điểm đổi mới và hội nhập, trang bị khung cơ bản của chương trình đào tạo và nội dung đào tạo và bồi dưỡng các chuyên ngành du lịch tương ứng với tiêu chuẩn của từng nhóm vị trí quản lý và chuyên nghiệp phù hợp với yêu cầu của họ, yêu cầu của thực tế. Các nhóm gián tiếp (lãnh đạo, quản lý, nhà nghiên cứu, giáo viên, v.v.) phải có tài năng trong lãnh đạo, quản lý, sử dụng và biết cách định vị nguồn nhân lực; có tấm lòng khiến mọi người tin tưởng, thúc đẩy tình yêu công việc, khả năng đóng góp và sáng tạo; Có tầm nhìn của ngành du lịch liên quan đến thế giới và tình trạng hiện tại của đất nước, dự báo có một kế hoạch tương đương, vượt qua đối thủ. Các nhóm trực tiếp (lễ tân, dịch vụ phòng, bồi bàn, hướng dẫn viên du lịch, đầu bếp, v.v.) phải đáp ứng các yêu cầu về đạo đức, kỹ năng, sáng tạo, áp dụng công nghệ tiên tiến phù hợp... vào công việc.
Các cơ sở đào tạo du lịch cần phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo để sửa đổi chương trình giảng dạy cho các khóa học du lịch chuyên ngành tại các trường trung học, cao đẳng và đại học trên toàn quốc; phối hợp với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội để tổ chức xây dựng chương trình đào tạo cho các trường cao đẳng dạy nghề. [CC14]Họ cũng nên học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong chương trình giảng dạy và phát triển môn học; đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo các cấp đào tạo theo hướng chuẩn hóa và hiện đại hóa.
Về phía các doanh nghiệp du lịch: Để khắc phục tình trạng thiếu nguồn nhân lực, đặc biệt là lao động có trình độ, nhiều doanh nghiệp đã tích cực tổ chức mô hình "trường học trong doanh nghiệp" và "doanh nghiệp trong trường" với sự hợp tác chặt chẽ giữa hai bên. Thông thường, Trung tâm điều hành Guide Vietnam được điều hành bởi công ty Vietravel. Tuy nhiên, Trần Thị Việt Hương, Giám đốc Trung tâm, cho biết: "Hiện tại chúng tôi có khoảng 110 giảng viên đang làm việc chính thức và hơn 1.000 giảng viên hợp tác. Là nhà cung cấp nhân sự đầu tiên thực hiện chuyến lưu diễn trong nước, nhưng chúng tôi cũng không thể. Do đó, trung tâm đang nỗ lực làm việc với các trường đại học để tìm nguồn, nhận sinh viên tốt nghiệp để đào tạo như một hình thức của học kỳ mùa hè, học hỏi từ công việc thực tế trong tour du lịch” [3]. Tương tự, Công ty Du lịch Saigontourist cũng đã mở Trường Trung cấp Du lịch Saigontourist nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu của đơn vị trong mùa cao điểm, chứ đừng nói đến việc cung cấp cho thị trường.
Trong những năm gần đây, các cơ sở đào tạo và các công ty du lịch đã nỗ lực rất nhiều trong việc tăng cường mối liên kết để tạo ra lực lượng lao động để đáp ứng nhu cầu thực tế. Tuy nhiên, các hoạt động này vẫn ở quy mô nhỏ và không thể che lấp "khoảng cách lớn" trong nguồn nhân lực du lịch.
Về phía các cơ quan du lịch: Huy động các nguồn lực và điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các hệ thống chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho du lịch. Để đáp ứng yêu cầu tăng quy mô và nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực cho ngành du lịch, cần tập trung huy động các nguồn lực cho đào tạo. Ngoài ngân sách, cần tăng cường xã hội hóa, chính sách thu hút đầu tư vào giáo dục và đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực du lịch cần được tăng cường.
Cần phải sửa đổi và bổ sung các chính sách và cơ chế cho việc xã hội hóa nguồn nhân lực trong du lịch. Tổ chức thực hiện các văn bản ban hành, rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung chính sách xã hội hóa đào tạo nguồn nhân lực trong ngành du lịch theo nhu cầu xã hội. Thông qua các cơ chế, chính sách để phát huy vai trò và nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp du lịch trong các hoạt động đào tạo, tham gia xây dựng các tiêu chuẩn và chương trình đào tạo nghề. Tạo học bổng, thực tập và hỗ trợ tài chính cho người học và coi trọng việc phát triển đào tạo nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp du lịch.
Tập trung và sử dụng hiệu quả kiến thức và kinh nghiệm của các nhà khoa học trong và ngoài nước để phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch. Tạo điều kiện cho sự tham gia của tất cả các thành phần trong xã hội vào phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch, góp phần xây dựng cơ sở vật chất và phương tiện dạy học và đóng góp ý tưởng cho các hướng dẫn, chính sách và chương trình, kế hoạch đào tạo du lịch.
Xem xét các chính sách đã ban hành, nghiên cứu và áp dụng các cơ chế, chính sách về ưu đãi đất đai, thủ tục hành chính và thông tin thị trường cho các nhà đầu tư để đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành du lịch.
4. Kết luận.
Đối mặt với sự phát triển của du lịch Việt Nam là sự tăng trưởng nhanh chóng, sự hội nhập vào phát triển khu vực và quốc tế ngày càng mở rộng, tình trạng nguồn nhân lực du lịch vừa yếu vừa thiếu, vì vậy việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch cần phải nâng cao tính chuyên nghiệp cả về kiến thức và kỹ năng. [CC15]Để nâng cao năng lực nghề nghiệp của sinh viên du lịch, cần tập trung đổi mới các yếu tố đào tạo như chất lượng giáo viên, chương trình, phương pháp giảng dạy, kỹ năng thực hành. [CC16]Ngoài ra, cần tăng cường hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp, giữa trung tâm đào tạo trong nước và trung tâm quốc tế; sự quan tâm của chính quyền, quản lý v.v.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Cải cách Giáo dục Việt Nam, Luật Giáo dục và các tài liệu mới nhất về các dự án giáo dục, Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội, 2010.
2. Ban thư ký ASEAN, Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về nghề du lịch, trích theo http://vietnamtourism.gov.vn/dmdocuments/SachHDMRA.pdf .
3. Ngô Trung Hà, Khung năng lực trong đào tạo du lịch, Tạp chí Khoa học, tập 11, số 11, 2017, 159-166.
4. Hồ Hạ, Nhân lực du lịch vừa thiếu vừa yếu, trích theo http://kinhtedothi.vn/nhan-luc-du-lich-vua-thieu-vua-yeu-320283.html
5. Hồng Nga, Thanh Ngân, Ngành du lịch: thiếu trầm trọng nhân lực chất lượng cao, trích theo https://doanhnhansaigon.vn/chuyen-lam-an/nganh-du-lich-thieu-tram-trong-nhan-luc-chat-luong-cao-1086905.html
6. Lê Văn Thông, Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch đáp ứng yêu cầu hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN, trích theo http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/dao-tao-nguon-nhan-luc-nganh-du-lich-dap-ung-yeu-cau-hoi-nhap-cong-dong-kinh-te-asean-57162.htm
7. Nguyễn Thị Thu Hương, Thực trạng và giải pháp phát triển ngành du lịch Việt Nam hiện nay, trích theo http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-trang-va-giai-phap-phat-trien-nganh-du-lich-viet-nam-hien-nay-47881.htm
[CC1]Thiếu trích dẫn tài liệu
[CC11]Giải pháp này khá chung, chưa thể hiện được giải pháp SV cần làm gì d8e63 nâng cao năng lực nghề nghiệp