2.2.Nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng thể chế phát triển bền vững
Đại hội VI của Đảng (1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có đổi mới tư duy về phát triển đất nước theo hướng bền vững: “Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội,…”(1), “bảo vệ môi trường sống”(2); đi đôi với phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường phải luôn luôn quan tâm tới phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ và tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Trong lúc nhiều quốc gia trên thế giới đang đi theo con đường phát triển bền vững thường chỉ chú trọng tới tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường thì Đảng ta còn nhấn mạnh thêm vấn đề phát triển văn hóa và củng cố an ninh, quốc phòng. Đây là một trong những đặc điểm cơ bản trong quan điểm của Đảng về phát triển bền vững, phù hợp với nền văn hiến và truyền thống của dân tộc Việt Nam là dựng nước phải đi đôi với giữ nước.
Trong Văn kiện Đại hội, khái niệm phát triển bền vững với ba thành tố là kinh tế - xã hội - môi trường chưa được sử dụng chính thức và vấn đề kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường cũng chưa được đặt ra một cách trực tiếp, nhưng Đại hội VI đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong nhận thức của Đảng về phát triển đất nước, vì đây là lần đầu tiên Đảng yêu cầu phải có sự thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, đồng thời nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bảo vệ rừng và các tài nguyên thiên nhiên khác. Quan điểm đó của Đảng hoàn toàn phù hợp với quan niệm của thế giới về phát triển bền vững. Vấn đề phát triển kinh tế đồng thời với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường đã được Đảng nêu ra từ thời kỳ trước đổi mới, đến Đại hội VI thì chủ trương đó tiếp tục được nhấn mạnh, tạo tiền đề quan trọng để đổi mới tư duy của toàn xã hội về phát triển đất nước theo hướng ổn định, bền vững. Tuy nhiên, Đại hội VI còn chưa đề cập vấn đề kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Tới Đại hội VII, lần đầu tiên Đảng đưa ra quan điểm phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội. Đây là bước phát triển mới trong tư duy của Đảng về phát triển bền vững ở Việt Nam, phù hợp với quan niệm chung của thế giới. So với nội dung quan điểm của Đại hội VI thì nội dung quan điểm của Đại hội VII (1991) về phát triển bền vững được trình bày rõ ràng, cụ thể và đầy đủ hơn, nhất là về vấn đề bảo vệ môi trường. Nhiều cụm từ đã được sử dụng để thể hiện nội dung thực chất của phát triển bền vững, như “bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội”, “kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội”, “tăng trưởng kinh tế”, “tiến bộ xã hội”. Tuy nhiên, Đại hội VII cũng mới yêu cầu kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, còn “bảo vệ môi trường” chưa được gắn chặt với cụm từ “kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội” và khái niệm “phát triển bền vững” cũng chưa được sử dụng chính thức trong Văn kiện Đại hội.
Kế thừa và phát triển quan điểm của Đại hội VII, Đại hội VIII (1996) đã đề cập vấn đề phát triển bền vững một cách toàn diện hơn, đầy đủ hơn và các giải pháp đưa ra cũng cụ thể và rõ ràng hơn, thể hiện tư duy độc lập và sáng tạo của Đảng về con đường phát triển đất nước trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế. Những điểm mới trong quan điểm của Đại hội VIII về phát triển bền vững thể hiện ở chỗ: lần đầu tiên Đảng đề cập đến việc “ứng dụng công nghệ sạch”; thay từ “vững chắc” bằng từ “bền vững” khi đề cập vấn đề phát triển kinh tế và sử dụng khái niệm “phát triển bền vững” đối với cả đất nước chứ không chỉ đối với lĩnh vực kinh tế; yêu cầu kết hợp một cách “hài hoà” giữa phát triển kinh tế với việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc; đưa các nhà máy, cơ sở sản xuất không có khả năng xử lý ô nhiễm môi trường ra khỏi các thành phố và ưu tiên sử dụng “công nghệ sạch”; gắn bảo vệ môi trường với tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội và phát triển văn hóa: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”(3). Như vậy, lần đầu tiên khái niệm “phát triển bền vững” được chính thức sử dụng trong Văn kiện Đại hội VIII, đánh dấu bước phát triển trong tư duy của Đảng về phát triển đất nước. Nếu trước đây, Đảng mới chủ trương kết hợp phát triển kinh tế với phát triển xã hội mà chưa gắn với bảo vệ môi trường thì nay, Đảng yêu cầu phải kết hợp chặt chẽ, hài hoà, hợp lý giữa phát triển kinh tế, xã hội không chỉ với bảo vệ, cải thiện môi trường mà còn với phát triển văn hóa (theo nghĩa rộng của từ này) và củng cố an ninh, quốc phòng. Như vậy, tới Đại hội VIII thì quan niệm khoa học của thế giới về phát triển bền vững với ba trụ cột chính là kinh tế - xã hội - môi trường và mối liên hệ chặt chẽ giữa chúng với nhau đã chính thức được Đảng ghi nhận. Bên cạnh việc thừa nhận và khẳng định những giá trị chung của phát triển bền vững, Đảng ta cũng phân tích một cách khoa học và sâu sắc thực tiễn Việt Nam và đưa ra quan điểm của mình về phát triển bền vững ở Việt Nam - đó là sự phát triển, trong đó có kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường với phát triển bền vững về văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ và củng cố an ninh - quốc phòng.
Như vậy, tới Đại hội VIII thì quan điểm của Đảng về phát triển bền vững đã được bổ sung bằng nhiều nội dung mới, vừa thể hiện được đặc điểm phát triển của Việt Nam hiện nay, vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới đương đại, nhờ đó mà nội dung khái niệm “phát triển bền vững” cũng được hoàn thiện thêm một bước đáng kể mà trọng tâm là kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa và củng cố an ninh - quốc phòng.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IX (2001), Đảng tiếp tục nhấn mạnh việc gắn kết giữa năm thành tố của phát triển bền vững ở Việt Nam mà Đại hội VIII đưa ra là kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa và an ninh - quốc phòng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng và an ninh”(4) (lần đầu tiên sử dụng cụm từ “cải thiện môi trường”); coi bảo vệ, cải thiện môi trường là một nội dung quan trọng của các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án (một điểm mới trong tư tưởng của Đại hội IX về bảo vệ môi trường); xác định rõ hơn mục tiêu cụ thể của việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội là phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội(5). Như vậy, Đại hội IX đã kế thừa quan điểm của Đại hội VIII về phát triển bền vững với 5 thành tố cơ bản, đồng thời bổ sung một số điểm mới trong nội dung bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Quan điểm của Đại hội IX về phát triển bền vững là cơ sở lý luận khoa học để Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 về việc ban hành Định hướng chiến lược về phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Đây là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta về những định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam, trong đó chỉ rõ phát triển bền vững là con đường tất yếu của Việt Nam; nêu ra những lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững và đề ra các biện pháp tổ chức thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam.
Điểm mới nổi bật trong Báo cáo chính trị tại Đại hội X (năm 2006) là gắn tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội với phát triển con người: “Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển con người”(6); “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục,…giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”(7).
Việc gắn phát triển kinh tế - xã hội với phát triển con người có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, vì con người vừa là mục tiêu, động lực vừa là bảo đảm quan trọng nhất của phát triển bền vững. Đảng tiếp tục nhấn mạnh việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên và đưa ra hai quan điểm mới là sử dụng công nghệ sạch, năng lượng sạch và thu gom, tái chế và xử lý chất thải. Đây là các vấn đề cấp thiết cần giải quyết khi nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa và cũng là những vấn đề của toàn cầu.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng (2011) tiếp tục khẳng định: “phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội, môi trường; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần cho xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia”(8). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội thông qua cũng chứa đựng nhiều nội dung quan trọng của phát triển bền vững, như gắn phát triển kinh tế tri thức với bảo vệ môi trường; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn(9).
Quan điểm của Đảng về phát triển bền vững còn được phát triển, hoàn thiện và cụ thể hóa trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 được thông qua tại Đại hội XI của Đảng, trong đó nổi bật nhất là quan điểm về mối quan hệ tác động qua lại giữa “phát triển nhanh” với “phát triển bền vững”: “Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội”(10). Như vậy, Đại hội XI của Đảng đã kế thừa và phát triển quan điểm của các Đại hội Đảng trước đây về phát triển bền vững ở Việt Nam với những nội dung phong phú, đa dạng, cụ thể, toàn diện và khoa học, vừa thể hiện được quan niệm chung của thế giới về phát triển bền vững, vừa phù hợp với khả năng, điều kiện và đặc điểm của Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế.
Về vấn đề thể chế, Đại hội XI lần đầu tiên xác định hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong ba đột phá chiến lược trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020. Như vậy, Đại hội XI đã bắt đầu sử dụng khái niệm thể chế và chú trọng vào xây dựng thể chế phát triển trên lĩnh vực kinh tế.
Trong bối cảnh khó khăn sau giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới và diễn biến phức tạp ở Biển Đông, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng vẫn chủ trương kiên trì phát triển kinh tế gắn chặt với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường theo hướng bền vững để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, trong đó nhấn mạnh đến sự phát triển bền vững về mặt xã hội. Ở Đại hội XII, Đảng vẫn tiếp tục quan điểm phát triển nhanh nhưng phải đảm bảo tính bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô và không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Tại Đại hội XII, vấn đề thể chế chỉ được nhắc đến trong nhiệm vụ tổng quát thứ hai là “Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nói cách khác, Đại hội XII mới chỉ đề cập đến hoàn thiện thể chế phát triển của lĩnh vực kinh tế. Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII năm 2017 đã cụ thể hóa nhiệm vụ trên “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng thành công và vận hành đồng bộ, thông suốt nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; góp phần huy động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh và bền vững vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (11)
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể, các văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030 với 12 định hướng tổng quát trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có định hướng về hoàn thiện thể chế phát triển bền vững. Báo cáo chính trị Đại hội XIII xác định định hướng thứ nhất là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường… tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”̣(12) . Như vậy, đây là lần đầu tiên vấn đề “thể chế phát triển bền vững” được đặt ra trong một văn kiện Đại hội Đảng. Đây là thể chế bảo đảm cho sự vận hành đồng bộ, thuận lợi, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại, hội nhập quốc tế, hướng tới thực hiện yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước. Việc nhấn mạnh và đặt “thể chế phát triển bền vững” là định hướng phát triển đầu tiên đã cho thấy nhận thức mới của Đảng ta về ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề này. Đó cũng là bài học được rút ra từ thực tiễn lãnh đạo công cuộc xây dựng, phát triển đất nước sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới. Điều này cho thấy, Đảng ta đã luôn nhìn thẳng vào sự thật và xác định phương hướng phát triển đất nước xuất phát từ các điều kiện thực tế. Đó chính là điều kiện quyết định để “tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Đồng thời, Đại hội XIII nhấn mạnh "hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Tuy nhiên, giải pháp tổng thể nhằm hoàn thiện đồng bộ thể chế để phát triển bền vững lại chưa được đề cập đầy đủ. Điều này đòi hỏi Đảng cần tiếp tục nghiên cứu và phát triển nhận thức sáng rõ hơn nữa trong thời gian tiếp theo để có thể đưa ra hệ thống giải pháp đồng bộ để hoàn thiện thể chế phát triển bền vững, đặc biệt trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội.