ThS. NCS Phí Thị Lan Phương
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt: Nghiên cứu mối quan hệ giữa bảo vệ môi trường với quyền con người rất có ý nghĩa đối với Việt Nam. Có thể thấy rằng, nghiên cứu lý luận và thực tiễn quyền con người đối với môi trường nhằm mục đích xây dựng khung lý luận để đánh giá việc thực thi quyền này ở nước ta, cũng như đề xuất giải pháp điều kiện đảm bảo, thúc đẩy thực thi quyền môi trường vì mục tiêu phát triển con người bền vững là cần thiết để Việt Nam vượt qua thách thức, đón nhận cơ hội sớm bước vào giai đoạn phát triển ổn định và bền vững
Từ khóa: bảo vệ môi trường; môi trường; quyền con người; phát triển bền vững.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Quyền con người được sống trong môi trường trong lành là nguyên tắc trụ cột, là quyền tự nhiên của con người, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, liên quan trực tiếp đến chất lượng cuộc sống. Ngày nay cùng với với những vấn đề như sự nóng lên của trái đất, băng tan, hiệu ứng nhà kính, ô nhiễm môi trường đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và sự sống của con người. Từ cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, cộng đồng quốc tế đã có những quan tâm đặc biệt đến quyền con người đặc biệt là quyền được sống trong một môi trường trong lành, quyền có sức khỏe tốt cả về vật chất và tinh thần.
Việt Nam đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, cùng với những lợi ích mang lại thì cũng dẫn đến sự xâm phạm nghiêm trọng đến môi trường và là biểu hiện trực tiếp của việc quyền con người không được bảo đảm. Mặc dù đã được Đảng và Nhà nước cùng người dân quan tâm nhưng vẫn chưa thực sự có được cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền này trên thực tế. Vì vậy, việc tìm hiểu mối quan hệ giữa môi trường với quyền con người và vận dụng cách tiếp cận quyền trong bảo vệ môi trường ở nước ta rất có ý nghĩa.
NỘI DUNG
- Quan điểm về quyền con người và quyền con người về môi trường
Về quan điểm quyền con người, có thể thấy rằng, do sự khác biệt về hoàn cảnh lịch sử, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, chế độ chính trị, giá trị truyền thống, văn hóa dân tộc, nên cách tiếp cận về quyền con người có sự khác nhau giữa các quốc gia, dân tộc. Vì thế, khái niệm quyền con người còn có nhiều cách hiểu khác nhau và đến nay chưa có một định nghĩa chính thức thế nào là quyền con người đúng cho mỗi quốc gia, dân tộc.
Trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua vào ngày 10/12/1948, Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự, Chính trị; Công ước Quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, được Đại Hội đồng thông qua năm 1966 đã tạo thành Bộ luật nhân quyền quốc tế. Tuy nhiên, trong các văn kiện này cũng không đưa ra một định nghĩa chính thức thế nào là quyền con người, và thay vào đó là liệt kê một loạt các quyền và tự do cơ bản của con người và trách nhiệm, nghĩa vụ của quốc gia thành viên là tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền và tự do cơ bản đó.
Do vậy, có thể hiểu đơn giản về quyền con người đó là những đặc quyền tự nhiên mà mỗi người khi được sinh ra đều có, không phân biệt về độ tuổi, trình độ, nghề nghiệp, địa vị xã hội, trình độ, nghề nghiệp, ngôn ngữ, dân tộc, giới tính và tôn giáo… Các quyền và tự do của con người được hệ thống luật pháp quốc tế ghi nhận và bảo đảm.
Quyền con người về môi trường, cũng như quyền con người, cho đến nay cũng chưa được nêu một cách cụ thể trong các văn kiện của Liên hợp quốc về quyền con người, tuy nhiên cũng đã được nhắc đến trong một số văn kiện như là Hiến chương châu Phi về quyền của con người và của các dân tộc (Điều 21); Nghị định thư San Salvador bổ sung Hiến chương châu Mỹ về quyền con người (Điều 11), Quyền con người và môi trường từ góc độ quyền có điều kiện sống, điều kiện làm việc thích hợp có thể thấy trong Công ước quốc tế về các quyền Kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR), được tuyên bố năm 1966, Tuyên bố Stockholm năm 1972 được xác định là cột mốc đầu tiên cho sự gắn kết hai vấn đề tưởng chừng là hai lĩnh vực riêng biệt trong hoạch định chính sách công, nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau là quyền con người và môi trường, hay tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Môi trường và Phát triển năm 1992 tại Rio de Janeiro, Brazil đã đã tuyên bố rằng con người “có quyền được sống một cuộc sống hữu ích và lành mạnh hài hòa với thiên nhiên”, “Vấn đề môi trường phải được giải quyết một cách tốt nhất với sự tham gia của tất cả các cá nhân liên quan, ở cấp độ thích hợp. Cấp độ quốc gia, mỗi cá nhân sẽ được tiếp cận thông tin thích hợp liên quan đến môi trường, do các cơ quan công quyền lưu giữ, bao gồm cả thông tin về các chất và hoạt động nguy hiểm trong cộng đồng của họ, và có cơ hội được tham gia trong quá trình ban hành các quyết định. Các quốc gia sẽ phải tạo điều kiện, tăng cường nhận thức và kêu gọi sự tham gia của cộng đồng trong việc phổ biến thông tin rộng rãi. Cơ hội tiếp cận một cách hiệu quả với tư pháp và các thủ tục hành chính, bao gồm cả việc bồi thường và đền bù thiệt hại phải được bảo đảm” (Liên Hợp Quốc, 1992, tr.6). Hay trong Công ước năm 1998 (Châu Âu) về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề môi trường được thông qua ngày 25/6/1998. “Bảo vệ môi trường một cách thích đáng là thiết yếu cho hạnh phúc của nhân loại và việc hưởng thụ các quyền con người cơ bản, bao gồm quyền được sống”, và “cũng thừa nhận rằng tất cả mọi người có quyền được sống trong một môi trường tốt cho sức khỏe và hạnh phúc của bản thân, và có nghĩa vụ thực hiện độc lập hoặc hợp tác với người khác trong việc bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường vì lợi ích của các thế hệ hiện tại và tương lai” (Công an nhân dân, 2007, tr.35)
Tư tưởng cốt lõi của phát triển bền vững là sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định, thực hiện tốt công bằng và tiến bộ xã hội, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ, nâng cao chất lượng môi trường sống
Do đó có thể hiểu Quyền con người về môi trường được hiểu mối quan hệ giữa bảo vệ môi trường và đảm bảo quyền con người, đó là quyền của mọi người trong thế hệ hiện tại và tương lai được sống trong môi trường trong lành, có lợi cho sức khỏe.
Như vậy, quyền con người về môi trường tồn tại ba cách hiểu như: 1) Bảo vệ môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người có cùng giá trị xã hội với đảm bảo quyền con người; 2) Bảo vệ môi trường và đảm bảo quyền con người dựa trên giá trị xã hội khác nhau; 3) Đảm bảo quyền con người và bảo vệ môi trường là đại diện cho hai hướng khác nhau nhưng chồng lấn các giá trị xã hội. Có thể thấy quyền con người về môi trường là tổng thể các nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người đối với các yếu tố vật chất cấu tạo thành môi trường, được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Nội dung quyền con người về môi trường bao gồm: Quyền được sống trong môi trường an lành, an toàn; Quyền được tiếp cận nước sạch; Quyền tiếp cận đất đai; quyền con người trong tiếp cận thông tin, quyền tham gia vào các quyết định, hoạt động bảo vệ môi trường, quyền tiếp cận tư pháp về môi trường (Đào Thị Minh Hương, 2011, tr.15-23)
- Mối quan hệ giữa quyền con người và bảo vệ môi trường
Mối quan hệ giữa con người và môi trường là mối quan hệ hai chiều, chính vì thế, những nghiên cứu về các chiều cạnh của con người đối với môi trường cần phải bao trùm nhiều ngành, phải phối hợp cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, trong đó không thể thiếu được khoa học về luật pháp.
Thứ nhất, bảo vệ môi trường như là một điều kiện tiên quyết để được hưởng các quyền con người; thực hiện quyền con người là yếu tố cần thiết để đạt được bảo vệ môi trường. Có thể thấy rằng, môi trường là vấn đề của quyền con người. Bảo vệ môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người có cùng giá trị xã hội với đảm bảo quyền con người. Bảo vệ môi trường như là một điều kiện tiên quyết để được hưởng các quyền con người đặc biệt là quyền được sống và quyền có sức khỏe. Hiện nay, sức khỏe của con người đang bị ảnh hưởng ngày càng lớn và hệ quả ngày càng trầm trọng do sự xuống cấp nghiêm trọng của môi trường và hệ sinh thái. Và chính sự ô nhiễm môi trường, sự hủy hoại môi trường tự nhiên đều trực tiếp tác động đến việc hưởng thụ quyền con người của tất cả mọi người. Vì thế, nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của con người là phải nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành, bảo đảm sức khỏe môi trường. Do vậy, cộng đồng thế giới thừa nhận môi trường chính là vấn đề của quyền con người, yêu cầu bảo vệ môi trường sống gắn bó chặt chẽ với yêu cầu bảo vệ quyền con người. Ô nhiễm môi trường, sự hủy hoại môi trường đều trực tiếp tác động đến chất lượng cuộc sống, hưởng thụ quyền con người.
Bảo vệ môi trường và đảm bảo quyền con người dựa trên giá trị xã hội khác nhau. Đảm bảo quyền con người và bảo vệ môi trường là đại diện cho hai hướng khác nhau nhưng chồng lấn các giá trị xã hội. Một mặt, các giá trị xã hội của bảo vệ môi trường và đảm bảo quyền con người có thể hỗ trợ lẫn nhau, nơi các giá trị môi trường cũng là giá trị hướng tới bảo vệ nhu cầu con người. Mặt khác, mặc dù quyền con người và bảo vệ môi trường tìm cách đạt được chất lượng bền vững cao nhất cho đời sống của con người, mục tiêu của chúng có thể khác nhau.
Các mối quan tâm của pháp luật quyền con người bảo vệ cá nhân và
các cộng đồng hiện tại, trong khi một trong các mục tiêu pháp luật môi trường
là để duy trì cuộc sống trên toàn cầu bằng cách cân bằng nhu cầu và năng lực
của hiện tại và tương lai. Đối với quyền con người, vấn đề khẩn cấp của sự
sống quan trọng hơn an ninh sinh thái lâu dài. Nói cách khác, hầu hết mọi
người sẽ dành ưu tiên ngay lập tức cho nhu cầu cơ bản của con người, như
thực phẩm, nước uống... hơn mối quan tâm trong dài hạn về môi trường. Tuy
nhiên để bảo đảm được các điều kiện đó lâu dài thì môi trường sống cũng
phải được bảo vệ ở mức cao nhất. Đây cũng là mục tiêu mà bảo vệ môi
trường hướng tới. Từ đây dẫn tới quan điểm rằng quyền con người và bảo vệ
môi trường phụ thuộc lẫn nhau, bổ sung và không chia cắt.
Quan điểm mới này cho thấy mối quan hệ của quyền con người và bảo
vệ môi trường là quan hệ hai chiều: suy thoái môi trường thường dẫn đến vi
phạm quyền con người, nghèo đói và thất bại trong việc thực hiện quyền của con người làm môi trường trở nên căng thẳng một cách báo động. Trong
nhiều trường hợp các quyết định pháp luật công nhận việc vi phạm quyền con
người cơ bản như nguyên nhân, hoặc kết quả của suy thoái môi trường. Quá
trình phát triển không bền vững của môi trường đang dần được chứng minh
như là một nguyên nhân của việc vi phạm quyền con người, do đó, các nhà
nước cần phải phấn đấu để tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa việc thúc
đẩy và bảo vệ quyền con người với bảo vệ, phục hồi và phát triển môi trường
để phát triển con người trở nên bền vững.
Thứ hai, đảm bảo tốt về quyền con người là thiết yếu để có chính sách tốt về môi trường. Môi trường là tài sản chung của cộng đồng, việc tiếp cận thông tin đóng vai trò quan trọng sự tham gia của công chúng đối với việc hoạch định chính sách về môi trường. Để có chính sách tốt về bảo vệ môi trường, đòi hỏi các quyền con người phải được bảo đảm thực hiện. Thực tiễn cho thấy, quyền tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng và tiếp cận tư pháp có tác động rất lớn đền việc hiện thực hóa các quyền về môi trường. Các quyền này nhằm giúp cho công dân đóng vai trò tích cực, chủ động hơn đối với các quyết định, chính sách của Nhà nước có liên quan tới môi trường; thực hiện dân chủ hóa đối với các quyết định, chính sách về môi trường, thông qua việc đưa cá nhân, các nhóm tư nhân và những người thường xuyên hứng chịu sự tác động và ảnh hưởng bởi sự ô nhiễm môi trường tham gia vào hoạch định chính sách có liên quan tới môi trường. Chính sự tham gia này, sẽ hạn chế quyền lực “quan liêu” của những người ban hành chính sách, bảo đảm sự cân bằng giữa lợi ích bảo vệ môi trường - phát triển bền vững với nhu cầu tăng trưởng kinh tế. Và vì vậy, việc thực hiện các quyền có tính chất thủ tục này là rất quan trọng để có được chính sách tốt về môi trường và qua đó sẽ tạo ra một môi trường bảo đảm cho sức khỏe, bảo vệ lợi ích số đông, lợi ích cộng đồng, bảo vệ những người dễ bị tổn thương trong xã hội, như trẻ em, phụ nữ, người nghèo, dân tộc thiểu số…
Như vậy có thể thấy rằng, Môi trường tự nhiên là điều kiện và phương tiện hoạt động sống của con người. Môi trường liên quan chặt chẽ và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống và sức khoẻ, đến quyền sinh tồn và quyền phát triển của con người. Mối quan hệ tương tác chặt chẽ giữa môi trường, sức khoẻ và quyền con người là rất rõ ràng. Sự suy thoái, ô nhiễm, thảm hoạ môi trường gây tác hại lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, sức khoẻ thể chất và tinh thần và mức độ hưởng thụ các quyền con người. Do đó, bảo vệ môi trường là một bộ phận cấu thành của quá trình phát triển và là một trong 3 cột trụ của phát triển bền vững. Sự phát triển bền vững của đất nước, chất lượng cuộc sống, sức khoẻ của dân cư và an ninh quốc gia chỉ có thể được bảo đảm trong điều kiện bảo tồn và gìn giữ được tình trạng môi trường trong sạch. Sống trong môi trường trong lành được coi là một quyền con người cơ bản. Sự ô nhiễm, suy thoái, phá hủy môi trường không chỉ gây tổn thất cho phát triển kinh tế, có thể phá hủy thành tựu tăng tưởng kinh tế, dẫn tới sự gia tăng nghèo đói, sự phân hoá và bất bình đẳng xã hội, mà còn gây ra nhiều bệnh tật nguy hiểm, làm tổn hại sức khoẻ, đe doạ sinh mệnh của nhiều triệu con người, ảnh hưởng xấu đến an ninh con người và xã hội.
- Vận dụng quyền con người trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Quan điểm về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng định và đề cập sớm trong Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững 1991-2000, trong Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 sau được sửa đổi, bổ sung năm 2005, Nghị định 26/CP, Chỉ thị 36 ngày 25/6/1996 của Bộ Chính trị khoá VIII, Nghị quyết số 41 của Bộ Chính trị khoá IX (ngày 15/11/2004), Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (2006), Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến 2010 và định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Phát triển bền vững từ lâu đã trở thành đường lối, quan điểm nhất quán của Đảng và chính sách của Nhà nước ta. Đảng ta cho rằng: Bảo vệ môi trường là vấn đề sống còn của nhân loại, là nhân tố bảo đảm sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - Xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững. Khắc phục tư tưởng chỉ coi trọng phát triển kinh tế - xã hội, coi nhẹ bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường vừa là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi người…Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên vùng cao…cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ Đảng, sự quản lý của nhà nước, sự tham gia tích cực của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân (Chính phủ, 2022).
Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, Luật bảo vệ môi trường năm
2005, nhận thức của cán bộ và nhân dân về bảo vệ môi trường đã được nâng cao hơn. Hệ thống luật pháp, chính sách, thể chế bảo vệ môi trường đang tiếp tục xây dựng và hoàn thiện…Tuy nhiên, trên thực tế, các giải pháp đề ra chưa đạt được hiệu quả mong đợi, môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị xuống cấp nhanh, với mức độ nghiêm trọng đáng báo động, công tác bảo vệ môi trường đang đứng trước những thách thức gay gắt. Quyền được sống trong môi trường trong lành của nhân dân bị xâm hại ở nhiều nơi, nhiều lúc, có nơi ở mức độ nghiêm trọng, tác động tiêu cực đến đời sống của một bộ phận nhân dân và gây tác hại lâu dài đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nghiên cứu hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành cho thấy, hầu hết các quy phạm pháp luật mới chỉ dừng lại nguyên tắc chung, có tính định khung; chưa chú trọng việc lồng ghép cách tiếp cận quyền con người trong bảo vệ môi trường. Các quy định của pháp luật chưa làm rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan tới bảo vệ môi trường; chưa làm rõ việc bảo vệ môi trường không chỉ thuộc trách nhiệm của Nhà nước mà còn là quyền và trách nhiệm của toàn xã hội, của mọi cá nhân và công dân, cộng đồng dân cư. Pháp luật chưa quy định cụ thể, rõ ràng cả về quy trình, thủ tục để mọi cá nhân, công dân có thể tham gia vào việc giám sát bảo vệ môi trường; tham gia vào việc ban hành các quyết định và tiếp cận tư pháp trong lĩnh vực môi trường. Luật bảo vệ môi trường hiện nay không quy định rõ về sự tham gia của cộng đồng và người dân vào trong quy trình đánh giá tác động môi trường (EIA), ngoài việc tham vấn đại biểu Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc cấp xã. Trên thực tế, ngay cả cấp độ tham vấn này cũng không được thực hiện một cách đầy đủ, không đại diên hiệu quả cho nguyện vọng của nhiều nhóm dân cư trong cộng đồng.
Nguyên nhân của tình trạng nói trên là những yếu kém, khuyết điểm
trong công tác bảo vệ môi trường:1/ Chưa có nhận thức đúng đắn về tầm quan
trọng của việc bảo vệ môi trường, vẫn còn quan điểm chỉ chú trọng phát triển
kinh tế, không chú ý đến môi trường. 2/ Công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ
môi trường còn nhiều yếu kém, pháp luật về bảo vệ Môi trường chưa hoàn thiện. 3/ Nguồn lực đầu tư bảo vệ môi trường còn nhỏ bé, dàn trải, chưa hợp lý. 4/ Việc thi hành pháp luật bảo vệ môi trường chưa nghiêm, chế tài chưa phù hợp...
Trước thực trạng đó, dựa trên cách tiếp cận quyền con người trong bảo vệ môi trường, ở nước ta hiện nay, cần rà soát, đánh giá lại hiện trạng pháp luật hiện hành, bổ sung, hoàn thiện theo hướng lồng ghép cách tiếp cận quyền con người vào việc hoạch định chính sách và pháp luật có liên quan tới bảo vệ môi trường trên cơ sở một số giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và quyền con người không chồng chéo, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu hội nhập quốc tế, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, dựa trên hướng tiếp cận quyền con người.
Thứ hai: đảm bảo quyền tham gia của người dân, của cộng đồng trong giám sát, bảo vệ môi trường được đầy đủ. Rà soát, đánh giá tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống, chính sách pháp luật trong công tác quản lý môi trường, từ đó đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật. Trước mắt, nghiên cứu sửa đổi bổ sung Luật bảo vệ môi trường năm 2005 theo hướng mở rộng hơn về phạm vi điều chỉnh; bổ sung các quy định mới và làm rõ hơn các quy định liên quan tới việc công khai, công bố thông tin về môi trường, việc huy động sự tham gia của cộng đồng, người dân trong giám sát bảo vệ môi trường, tham gia xây dựng chính sách pháp luật có liên quan tới môi trường.
Thứ ba: Tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ thẩm định Đánh giá môi trường chiến lược Đánh giá tác động môi trường, đặc biệt ở cấp địa phương thông qua việc đào tạo, tập huấn và tích lũy kinh nghiệm từ thực tiễn công việc. Bên cạnh đó, để tăng cường thực thi pháp luật về môi trường, Nhà nước sớm nghiên cứu đào tạo chuyên sâu và phát triển đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật, trước hết là cán bộ điều tra, luật sư, công tố viên và thẩm phán về môi trường; có chính sách hỗ trợ các văn phòng luật sư, văn phòng tư vấn pháp luật nhằm tư vấn, hỗ trợ về mặt pháp lý cho người dân, cộng đồng dân cư, và giúp người dân giám sát việc thi hành pháp luật, khởi kiện đối với các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân và cộng đồng, dân cư.
Thứ tư: Tăng cường đầu tư tài chính, xây dựng nguồn lực đủ mạnh cho bảo vệ môi trường, Nâng cao nhận thức của cộng đồng và đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường
KẾT LUẬN
Quyền được sống trong một môi trường trong lành là quyền tự nhiên của con người, là quyền rất quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến chất lượng cuộc sống cùng với các tiêu chí dùng đánh giá chất lượng cuộc sống như thu nhập bình quân đầu người, hệ thống an sinh xã hội. Bảo vệ môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người có cùng giá trị xã hội với đảm bảo quyền con người. Bảo vệ môi trường như là một điều kiện tiên quyết để được hưởng các quyền con người đặc biệt là quyền được sống và quyền có sức khỏe. Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, do vậy cần xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và quyền con người, đảm bảo quyền tham gia của người dân, của cộng đồng trong giám sát, bảo vệ môi trường được đầy đủ, tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ thẩm định đánh giá môi trường chiến lược đánh giá tác động môi trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Chính phủ (2022), Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Chính phủ ban hành Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. (moit.gov.vn)
- Công an nhân dân (2007), Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, Nxb Công an Nhân dân, tháng 10 – 2007.
- Đào Thị Minh Hương (2011), “Quyền con người với môi trường: Nhận thức cộng đồng quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu con người, tháng 2/2011.
- Liên Hợp quốc (1992), Tuyên bố của Liên Hợp quốc về Môi trường và phát triển, Nguyên tắc 10, trg 6, Hội nghị Liên Hợp quốc về môi trường của con người.
http://vea.gov.vn/PublishingImages/Lists/iu%20c%20quc%20t/NewForm/Tuy%C3%AAn%20b%E1%BB%91%20c%E1%BB%A7a%20Li%C3%AAn%20h%E1%BB%A3p%20qu%E1%BB%91c%20v%E1%BB%81%20m%C3%B4i%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20v%C3%A0%20ph%C3%A1t%20tri%E1%BB%83n.pdf