TS. Nguyễn Thị Thắm
Đại học Kinh tế Quốc Dân
Tóm tắt:
Thực hiện quyết định số 1956/QĐ-TTg của thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” đến nay đã đi vào thực hiện những giai đoạn cuối. cùng với đó là những chính sách bảo tồn nghề truyền thống, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho hàng triệu lao động nông thôn là công việc vô cùng cần thiết trong thời hội nhập. Tuy nhiên, các nghề đang gặp không ít khó khăn trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm, trong đào tạo để giữ nghề và tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng...
Từ khoá: Dạy nghề, đào tạo nghề, nghề truyền thống…
1. Một số vấn đề cơ bản về đào tạo nghề, nghề truyền thống hiện nay
Khái niệm “đào tạo nghề” được quy định tại Điều 3 trong Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 thì “đào tạo nghề nghiệp là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học để nâng cao trình độ hay nghề nghiệp” hya nói cách khác đó là quá trình tác động có mục đích rõ ràng và có sự tổ chức đến người học nghề để từ đó tạo nên một cách có hệ thống những kiến thức, kỹ năng giúp đáp ứng nhu cầu của xã hội trong đó có nhu cầu quốc gia, nhu cầu doanh nghiệp và nhu cầu bản thân người học nghề.
Đặc điểm của đào tạo nghề gắn liền với nhu cầu thực tế của xã hội hiện nay, một số đặc điểm có thể kể đến như sau. Thứ nhất, những người lao động ở nông thôn là đối tượng được tham gia chương trình đào tạo nghề của Chính phủ ban hành. Trong đó ưu tiên dạy nghề cho các đối tượng là người thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi và những người có công với cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người bị thu hồi đất canh tác.
Thứ hai, nguồn kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề sẽ được lấy từ ngân sách trung ương, địa phương và doanh nghiệp. Trong đó, ngân sách trung ương giúp đảm bảo kinh phí để thực hiện chính sách hỗ trợ lao động nông thôn học nghề, hoạt động đào tạo; các cá nhân, doanh nghiệp tham gia công tác đào nghề được hưởng mức thuế ưu đãi theo đúng quy định của pháp luật. Thứ ba, đào tạo nghề phải gắn với giải quyết việc làm cho người lao động và đây cũng là đặc điểm nổi bật của đề án 1956 của Chính phủ về đào tạo nghề cho người lao động nông thôn được xem xét dựa trên thực trạng phát triển hiện nay của Việt Nam bởi một lẽ người lao động chủ yếu sinh sống ở khu vực nông thôn và làm ngành nghề nông nghiệp. Phần lớn trong số họ đều sản xuất theo kiểu truyền thống, nặng về kinh nghiệm được truyền từ đời này sang đời khác, sự thiếu hẳn kiến thức chuyên môn về nông nghiệp đã ảnh hưởng đến hiệu quả làm nông. Một khi người nông dân quen với cách thức canh tác ngàn đời thì rất khó thay đổi, dẫn đến mức sống cũng khó mà thay đổi theo từng năm. Trước tình hình đó, Chính phủ đã xây dựng đề án 1956 nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống ở khu vực nông thôn bằng cách dạy nghề cho họ, giảm tỷ hộ nghèo, đặc biệt là hộ nghèo người dân tộc thiểu số. Đối với khu vực Tây Nguyên, tỷ lệ người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ khá cao, phân chia rải rác ở các dân tộc khác nhau. Đào tạo nghề hướng tới từng bước xoá bỏ sự cách biệt cứng nhắc giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị, giữa lao động chân tay và lao động trí óc. Thứ tư, sự liên kết giữa các bên tham gia ở tất cả các khâu của đào tạo nghề. Từ khâu tuyển sinh đầu vào đến quá trình đào tạo và đầu ra phải có sự phối hợp ăn ý giữa chính quyền - đại diện quản lý nhà nước, doanh nghiệp - đại diện tiếp nhận lao động qua đào tạo nghề, người lao động - đại diện bên hưởng thụ hỗ trợ dự án. Trong đó, chính quyền quản lý đóng vai trò cầu nối trung gian cho nhà tuyển dụng doanh nghiệp và người lao động, thường xuyên điều tra khảo sát nhu cầu lao động của nhà tuyển dụng lao động và thông tin rộng rãi đến các cấp và trực tiếp đến người lao động, đặc biệt người lao động chưa có việc làm hoặc mới nghỉ việc. Thứ sáu, từng bước thay đổi những định hướng giá trị nghề nghiệp trong đó kết hợp hài hoà giữa lợi ích, nhu cầu cá nhân và xã hội. Quan niệm của nhiều người là chỉ học nghề khi không đậu cao đẳng/đại học còn rất phổ biến, xem trọng nghề được đào tạo rất ít mà hầu hết cho rằng học nghề cho có bởi vì chỉ có bằng cao đẳng/đại học mới có thể kiếm được việc làm. Hơn nữa, người lao động đăng ký tham gia học nghề do thấy được miễn học phí và được hỗ trợ chi phí ăn ở, đi lại trong thời gian đào tạo mà không nhận thức được tầm quan trọng của việc học nghề theo chủ trương định hướng của chính quyền. Để thay đổi nhận thức là công việc không phải ngày một ngày hai mà mất đến một năm, thậm chí hơn một năm mới hy vọng có sự chuyển biến từ sâu bên trong của người lao động, chỉ khi nào họ nhận thức đúng vai trò của công tác đào tạo nghề thì chất lượng mới có thể thay đổi theo hướng tích cực. Cuối cùng, chuyển dần từ đào tạo nghề một lần sang đào tạo, bồi dưỡng liên tục, suốt đời. Chuyển từ đào tạo kỹ năng sang đào tạo và hình thành năng lực, đặc biệt là các năng lực mềm (tư duy, thích nghi, biến đổi…) theo như nghiên cứu của “Nguyễn Viết Sự”(2005) trong “Giáo dục nghề nghiệp - những vấn đề và giải pháp” đã chỉ ra khả năng thích ứng với môi trường làm việc, tác phong nghề ngiệp. Đây là đặc điểm có tính đột phá trong đào tạo nghề, từ việc thay đổi trong suy nghĩ của người lao động đến việc hình thành năng lực tư duy lâu dài, từ việc được ý thức cho đến tự ý thức. Với những thay đổi không ngừng trong quá trình hội nhập và phát triển ở bất kỳ khu vực lao động như hiện nay đã đặt ra cho công tác đào tạo nghề không chỉ đào tạo một lần mà thay vào đó phải xây dựng kế hoạch đào tạo lâu dài đáp ứng được điều kiện thay đổi của thực tế.
Theo Tiến sĩ Phạm Côn Sơn trong cuốn “Làng nghề truyền thống Việt Nam” thì làng nghề được định nghĩa như sau: “Làng nghề là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, kỉ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là làng sống chuyên nghề mà cũng hàm ý là những người cùng nghề sống hợp quần để phát triển công ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự vừa làm ăn tập thể, vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và các cá biệt của đại phương”.
Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng: “Làng nghề là làng ấy, tuy có trồng trọt theo lối thủ nông và chăn nuôi (gà, lợn, trâu,…) làm một số nghề phụ khác (thêu, đan lát,…) song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có ông trùm, ông phó cả cùng một số thợ và phó nhỏ đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu bằng nghề đó và sản xuất ra những hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa và có quan hệ tiếp thị với thị trường là vùng rộng xung quanh với thị trường đô thị, thủ đô và tiến tới mở ra rộng rãi cả nước rồi có thể xuất khẩu ra nước ngoài”.
Làng nghề thủ công truyền thống là trung tâm sản xuất hàng thủ công, quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính lâu đời, theo kiểu cha truyền con nối, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sản phẩm thủ công truyền thống vừa mang tính ứng dụng cao vừa là những sản phẩm độc đáo, ấn tượng, tinh xảo. Trong đó, sản phẩm thủ công được xếp thành 12 nhóm chính, bao gồm: Mây tre đan, sản phẩm từ cói và lục bình, gốm sứ, điêu khắc gỗ, sơn mài, thêu ren, điêu khắc đá, dệt thủ công, giấy thủ công, tranh nghệ thuật, kim khí,… những sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác.
2. Cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với vấn đề giải quyết việc làm tại các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay
Tại hội nghị về công tác đào tạo nghề tại trung du và miền núi Bắc Bộ năm 2016 đã tổng kết “ Các tỉnh vùng trung du, miền núi Bắc bộ hiện có 451 cơ sở tham gia dạy nghề, trong đó có 249 cơ sở dạy nghề (tăng 61 cơ sở so với năm 2012) gồm 22 trường cao đẳng nghề, 32 trường trung cấp nghề, 195 trung tâm dạy nghề và 202 cơ sở khác (trung tâm giới thiệu việc làm, trung tâm giáo dục thường xuyên, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, HTX...) tham gia hoạt động dạy nghề. Tổng tuyển sinh dạy nghề giai đoạn 2013-2015 là 415.884 người, tăng 11% so với giai đoạn 2010-2012; bình quân mỗi năm đào tạo nghề cho 139.000 người. Trong đó, trình độ cao đẳng nghề và trung cấp nghề là 43.606 người, chiếm khoảng 10,5%; trình độ sơ cấp và đào tạo thường xuyên là 372.278 người, chiếm 89,5%. Lao động nông thôn tham gia học nghề chủ yếu
Là người dân tộc thiểu số (chiếm 62%), thuộc hộ nghèo và cận nghèo (chiếm 19%), học xong chủ yếu tự tạo việc làm (chiếm 87%), một số ít được doanh nghiệp tuyển dụng hoặc thành lập các tổ, nhóm sản xuất nhỏ (chiếm 13%). Trong 8 tháng đầu năm 2016, toàn vùng đã tuyển sinh học nghề được 124.511 người, tăng 23% so với cùng kỳ năm 2015. Một số địa phương vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển sinh, đào tạo như Sơn La chưa tuyển sinh được trình độ trung cấp, cao đẳng; Hà Giang chưa tuyển sinh được trình độ cao đẳng, số học sinh học nghề trình độ trung cấp mới đạt 3% kế hoạch đề ra.”(baotintuc.vn). Nắm bắt kịp tình hình và mong muốn đáp ứng về nhu cầu lao động của các tỉnh thành, Nhà nước ta đã ban hành các cơ chế, chính sáchliên quan nhằm nâng cao chất lượng lao động đối với lao động của các huyện nghèo, vùng sâu, vùng xa và dân tộc thiểu số ít người, Thủ tướng Chính Phủ đã phê duyệt Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg với mục tiêu chính là “Nâng cao chất lượng lao động và tăng số lượng người lao động ở các huyện nghèo tham gia xuất khẩu lao động, góp phần tăng thêm việc làm, tăng thu nhập và thực hiện giảm nghèo bền vững”. Bên cạnh đó, là Nghị định số 61/2015/NĐ-CP về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và quỹ quốc gia về việc làm đã tạo điều kiện cho người lao động dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp. Tháng 9/2016 còn có nghị định số 1722/QĐ-TTg được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2010 với đối tượng là hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo trên phạm vi cả nước, ưu tiên hộ nghèo, dân tộc thiểu số, phụ nữ thuộc hộ nghèo; huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn bãi ngang ven biển và hải đảo, xã an toàn khu, xã biên giới, xã đặc biệt khó khăn, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Từ đó cho thấy Nhà nước ta đã có những ý thức rõ ràng về tính cấp thiết của việc đào tạo nghề trong xã hội hiện nay, việc ban hành kịp thời những chủ trương, chính sách đã góp phần tạo động lực thúc đẩy to lớn cho vấn đề gaiir quyết việc làm tại các tỉnh và địa phương, đặc biệt là các tỉnh khó khăn, vùng núi Bắc Bộ.
3. Thực trạng về vấn đề đào tạo dạy nghề gắn với bảo tồn nghề truyền thống ở tỉnh Lai Châu
Đào tạo nghề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với lực lượng lao động. Đào tạo nghề sẽ tăng cơ hội việc làm, ổn định sinh kế để xóa đói, giảm nghèo. Trong đó, đào tạo nghề truyền thống đang được xem là bài toán tạo sinh kế bền vững, ổn định. Tuy nhiên, hiện nay, loại hình đào tạo nghề truyền thống, nhất là ở vùng đồng bào DTTS và miền núi chưa thực sự được quan tâm, đầu tư...Năm 2009, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án "Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020", với mục tiêu đào tạo khoảng 1 triệu người mỗi năm, giúp người dân tăng thu nhập, góp phần vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp...Tuy nhiên, qua thực tiễn triển khai các nội dung đề án, thì công tác đào tạo nghề truyền thống vùng DTTS như: đan lát, thổ cẩm… lại đang bị bỏ sót hoặc mới chỉ manh nha, tự phát tại một số địa phương “Việc dạy nghề phần lớn theo lối truyền nghề trong các gia đình, cầm tay chỉ việc hoặc tổ chức những lớp học ngắn ngày cho con em trong địa phương. Do quy mô dạy nghề truyền thống chưa được chú trọng, lại không có giáo trình biên soạn cụ thể (chủ yếu truyền dạy theo kinh nghiệm) cho nên nhu cầu học nghề và số lượng người học theo được với nghề rất thấp”.
Sơ đồ 1. Lao động trong các nghề truyền thống ở tỉnh lai châu
Đơn vị tính/ người
Năm
|
Nghề làm bánh
|
Nghề nấu rượu
|
Nghề mây tre đan
|
Nghề dệt thổ cẩm
|
Nghề miến dong
|
Nghề rèn
|
2016
|
119
|
351
|
420
|
665
|
165
|
30
|
2017
|
145
|
351
|
420
|
678
|
167
|
30
|
2018
|
168
|
362
|
425
|
721
|
172
|
32
|
2019
|
198
|
364
|
427
|
725
|
188
|
32
|
2020
|
199
|
365
|
435
|
765
|
192
|
30
|
Nguồn: số liệu điều tra của nhóm đề tài 2020
Trong tình hình thực tế hiện nay, để đẩy mạnh việc bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống, ngày 20/8/2014, Chủ tịch UBND tỉnh đã ký Quyết định số 954/QĐ-UBND về việc công nhận làng nghề, nghề truyền thống tỉnh Lai Châu năm 2014 bao gồm 4 làng nghề và nghề truyền thống. Trong đó, trên địa bàn Thành phố Lai Châu có 01 làng nghề sản xuất các loại bánh dân tộc ở Bản San Thàng 1, xã San Thàng và 01 nghề nấu rượu ngô truyền thống ở bản Sùng Chô, xã Nậm Lỏong. Việc làm này góp phần vào việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa, quảng bá hình ảnh, thương hiệu cho các nghề trên địa bàn, từng bước tạo ra sản phẩm có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của thị trường, đưa nghề truyền thống ngày càng phát triển. Bên cạnh đó, cũng sẽ được hưởng các chính sách ưu đãi về khuyến công, phát triển nghề và làng nghề theo quy định của tỉnh, Nhà nước. Thêm vào đó chú trong đào tạo nghề, đặc biệt hướng đến bảo tồn nghề truyền thống là thế mạnh vốn có của dồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lai Châu.
Bảng 2.1. Tổng thu nhập của hộ lao động trong các nghề truyền thống
ở tỉnh Lai Châu
Đơn vị tính: Triệu đồng/năm
|
2016
|
2017
|
2018
|
2019
|
2020
|
Nghề miến dong
|
33.599
|
55.319
|
57.813
|
60.500
|
70.700
|
Nghề làm bánh
|
13.083
|
22.184
|
25.348
|
30.239
|
39.679
|
Nghề dệt thổ cẩm
|
33.132
|
36.415
|
46.819
|
48.000
|
41.050
|
Nghề mây tre đan
|
43.132
|
36.455
|
46.500
|
48.300
|
45.050
|
Nghề rèn
|
10.243
|
22.182
|
23.269
|
24.629
|
29.279
|
Nghề nầu rượu
|
70.398
|
97.937
|
134.923
|
149.332
|
139.930
|
Nguồn: kết quả điều tra của nhóm đề tài 2020
Có một điều dễ nhận thấy thu nhập trong nghề truyền thống hiện nay chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu sống của người dân, chính vì vậy hiện nay nghề truyền thống của tỉnh Lai Châu mới chỉ mạng tính chất bán thời gia, hộ gia đình là chủ yếu. Vì vậy càng cần phải có chiến lược đào tào nghề nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện thu nhập, hướng đến bảo tồn và phát triển bền vững.
4. Đề xuất giải pháp giúp nâng cao và hoàn thiện chính sách giải quyết việc làm gắn với bảo tồn và phát triển nghề truyền thống ở tỉnh lai Châu
* Chính sách của nhà nước
Từ khi đề án 1956 ra đời đã giúp cải thiện rất nhiều cho cơ cấu và năng suất lao động của tỉnh Hà Giang nhưng bên cạnh đó Chính phủ cũng cần chú trọng hơn một số điểm để cải thiện tốt hơn nữa vấn đề lao động và đào tạo nghề này.
- Đưa ra những chính sách nhất quán, đồng bộ về việc đào tạo nghề và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Đặc biệt là những lao động khó khăn, không làm nông, lâm hay thuỷ sản.
- Có những hỗ trợ về mặt thông tin cho những gia đình có thành viên trong độ tuổi lao động nhưng không còn đi học và chưa có công an việc làm.
- Tích cực tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp tại địa phương tăng thêm cơ hội việc làm cho lao động sau khi tốt nghiệp, tạo công an việc làm ổn định với thu nhập thích đáng.
* Chính sách đầu t ư
Việc học nghề được xem là một mục tiêu trong đầu tư phát triển bởi nó sẽ góp phần tạo ra giá trị cho nền kinh tế trong tương lai gần. Nhưng nhìn nhận lại những vấn đề liên quan đến đầu tư tại Hà Giang thì thực sự chưa có một kết quả rõ nét. Vậy cần tập trung xem xét những vấn đề sau đây khi nói đến đầu tư trong đào tạo nghề.
- Cải thiện môi trường học cho mọi người dân sao cho đáp ứng đầy đủ và kịp thời về vấn đề cơ sở vật chất, phương tiện và máy móc thiết bị ở điều kiện tốt nhất
- Kết hợp giữa vừa học và thực hành tại doanh nghiệp để gia tăng sự tương tác cũng như kết nối của cả hai bên.
- Cần khuyến khích kêu gọi đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước để cải thiện môi trường đào tạo nghề sao cho chuyên nghiệp và đạt hiệu quả tốt nhất.
Tóm lại từ khi có đề án 1956/TTg ra đời đã hỗ trợ cho hơn 800.000 lao động có việc làm trên cả nước, 19.800 người khuyết tật có công ăn việc làm. Đề án đang ở những giai đoạn cuối thực hiện, cần nhanh chóng xem xét hoàn thành để mục tiêu đăt ra đạt mức hiệu quả nhất và ngày càng tiến đến một xã hội bình đẳng, văn minh cho mọi người thông qua việc làm.
*Chính sách của tỉnhLai Châu
- Để nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn, trong đó có đào tạo nghề truyền thống vùng DTTS, thiết nghĩ các cơ quan, đơn vị chuyên ngành, các cơ sở đào tạo nghề cần rà soát, tổ chức đánh giá hiệu quả những chương trình đào tạo đã ban hành để điều chỉnh, hướng trọng tâm vào ngành nghề khả thi về việc làm, và tăng thu nhập cho đồng bào.
- Các cấp chính quyền, tổ chức cũng cần quan tâm, có giải pháp về cơ chế để thúc đẩy công tác đào tạo nghề truyền thống; Ưu tiên hỗ trợ các hộ gia đình trong làng nghề tiếp cận nguồn vốn giải quyết việc làm, nhằm tạo điều kiện mở rộng, phát triển sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm mới, nâng cao thu nhập cho người lao động...
Kết luận
Như vậy chính sách dạy nghề gắn với bảo tồn và phát triển nghề truyền thống ở tỉnh Lai Châu có ý nghĩa to lớn trong thực hiện an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh. Thiếu việc làm, không có việc làm hoặc việc làm với năng suất và thu nhập thấp sẽ không thể giúp người dân bảo đảm cuộc sống và phát triển bền vững. Đối với người dân của tỉnh Lai Châu, việc làm liên quan đến yếu tố đất đai, tư liệu lao động, công cụ lao động, kỹ năng nghề và vốn sản xuất. Các yếu tố trên kết hợp thành một chỉnh thể tác động mạnh đến đời sống của của người dân. Dạy được nghề, đặc biệt là nghề truyền thống là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động này của tỉnh Lai Châu.
Tài liệu tham khảo
- Niên giam thống kê 2017
- Lai Châu: Khôi phục và phát triển nghề truyền thống
http://nguoilamnghe.vn/tuong-lai-mo/lai-chau-khoi-phuc-va-phat-trien-lang-nghe-truyen-thong-1439.html
- Duy trì và phát triển nghề truyền thống
https://baolaichau.vn/kinh-t%E1%BA%BF/%C4%91%E1%BB%83-duy-tr%C3%AC-v%C3%A0-ph%C3%A1t-tri%E1%BB%83n-ngh%E1%BB%81-truy%E1%BB%81n-th%E1%BB%91ng
- Nguyễn Thị Thắm & Lê Hương Giang (2020), Bảo tồn, phát triền ngành nghề truyền thống đối với người dân tộc tỉnh Điện Biên, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Dạy nghề và giải quyết việc làm cho lao động vùng dân tộc” – NXB Lao động – Xã Hội