30/06/2022
Tóm tắt
Dưới góc độ chính trị học, việc thực hành dân chủ (THDC) là một trong những phương
thức quan trọng nhất để giải phóng hết năng lực và phát huy hết tiềm năng sáng tạo, sức mạnh trí
tuệ của con người. Và sứ mệnh đó được trao cho Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh sớm
nhận thức rõ và đã luận giải sâu sắc về vấn đề xây dựng Đảng, trong đó, THDC có vị trí đặc biệt
quan trọng, Đảng gắn với THDC trở thành bản chất của một Đảng cách mạng chân chính.
Từ khóa: Hồ Chí Minh, dân chủ, thực hành dân chủ, thực hành dân chủ trong Đảng, xây
dựng Đảng.
Abstract
In term of political perspective, the practice of democracy is one of the most important
ways to develop all of one's capacity and bring into full play the creative potential and intellectual
power of human beings. And that mission was given to the Communist Party of Vietnam, Ho Chi
Minh soon became clearly aware and explained deeply on the issue of Party building, in which the
practice of democracy plays a particularly important role. The Party associated with the practice
of democracy becomes the essence of a true revolutionary Party.
Keywords: Ho Chi Minh, democracy, practice democracy, practice democracy in
the Party, build the Party.
1. Đặt vấn đề
Thực hành dân chủ (THDC) trong Đảng Cộng sản Việt Nam là hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,
là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hóa văn hóa nhân loại. Đó là kết quả của quá trình đưa
lý luận dân chủ vào thực tiễn thực hành trong Đảng, từ thực hiện quyền “là chủ”
và “làm chủ” của đảng viên trong mọi hoạt động của Đảng. Dân chủ trong Đảng
được thực hành trong ba mối quan hệ đối với mình, đối với người và đối với việc.
Trong đó, đảng viên thể hiện tính tiên phong, gương mẫu, vừa tham gia, bàn bạc,
trao đổi, thảo luận, xây dựng mà còn phê bình, quyết định và thực hiện các công
tác của Đảng, Nhà nước và xã hội một cách chủ động, tích cực, hăng hái theo các
nguyên tắc tổ chức của Đảng nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thực hành dân chủ trong Đảng Cộng
sản Việt Nam
2.1.1. THDC là bản chất của một Đảng chân chính cách mạng
Cách mạng Việt Nam thực chất là quá trình đấu tranh lâu dài để xác lập
vị trí “là chủ” quyền lực nhà nước của nhân dân và trở thành người “làm chủ”
thực sự tham gia xây dựng, bảo vệ chính quyền, góp phần hình thành phẩm
chất của con người mới XHCN. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân đã tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám
(1945), lập nên Nhà nước Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỉ nguyên mới cho quá trình THDC
ở Việt Nam. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đưa nhân dân ta từ bị áp bức, nô lệ lên
làm chủ đất nước, xã hội và hoạt động với tư cách là các chủ thể tự giác xây dựng xã
hội mới.
Quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện thông qua bầu cử, trở thành
vũ khí hữu hiệu duy nhất được sử dụng lúc đó để bảo vệ chế độ dân chủ non
trẻ, trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc, thù trong, giặc ngoài sau Cách mạng
Tháng Tám. Cuộc tổng tuyển cử dân chủ đầu tiên trong lịch sử (6/01/1946)
đã tập hợp được toàn dân tộc đảm bảo cho sự hợp pháp của chế độ dân chủ
cộng hòa mới được sáng lập. Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng và ban hành bản
Hiến pháp mới (năm 1946), đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện
quyền lực của nhân dân. Đảng đã làm tròn nhiệm vụ THDC đầu tiên, làm cho
mỗi người dân thực sự trở thành công dân của xã hội dân chủ. Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong Bài nói chuyện về bản tổng cương và Điều lệ của Đảng
(10/5/1950) khẳng định: “Mục đích của Đảng là đánh Pháp, giải phóng dân
tộc, thực hiện dân chủ mới, rồi sẽ tùy theo tình hình kinh tế, sự sắp đặt của
Đảng, sự giác ngộ, giáo dục, tổ chức quần chúng đi tới XHCN” [1, tr.367].
Đảng xây dựng một chế độ xã hội, một hình thái nhà nước, một hệ thống
chính trị để đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng các tổ chức
Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ
trong xã hội. Khi xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
chú trọng tới xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo
Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội. Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Xây dựng mặt trận với vai trò là liên minh chính trị tự nguyện của tất cả các
tổ chức chính trị - xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển đất nước; xây
dựng các tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi khác của nhân dân.
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là có bảo đảm và phát huy dân
chủ ở trong Đảng thì mới bảo đảm được dân chủ của toàn xã hội. Quyền lãnh
đạo của Đảng được xuất phát từ sự ủy quyền của giai cấp công nhân, dân tộc
và của nhân dân. Đảng trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội, là nhân
tố tiên quyết để bảo đảm tính chất dân chủ của xã hội. Dân chủ trong Đảng
trở thành yếu tố quyết định dân chủ của toàn xã hội. Xuất phát từ vị thế tự
nhiên của Đảng Cộng sản, Người thường nói: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền” và cho rằng “Đảng cũng ở trong xã hội” và “Đoàn thể từ Trung ương
đến xã do dân tổ chức nên” nhưng theo Người, vấn đề không chỉ là sự ra đời
của Đảng từ nhân dân và do nhân dân tổ chức nên, mà chính là Đảng lấy sức
mạnh từ nhân dân, gắn bó với nhân dân.
Bản chất của Đảng là đội ngũ tiên phong, là đại diện của dân tộc và đưa
quyền lợi cho toàn dân tộc vì Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phấn
đấu vì lợi ích của nhân dân và Tổ quốc. Động lực của dân chủ đã được thể hiện
rất rõ nét trong toàn bộ tiến trình cách mạng nước ta. Đồng thời, Đảng là một tổ
chức cách mạng tiên phong, do đó Đảng phải tiêu biểu cho dân chủ, trước hết
Đảng phải không ngừng nâng cao tiềm lực trí tuệ, tiềm lực tư tưởng. Lênin
đòi hỏi Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của thời đại. Để
Đảng thực sự tiêu biểu là đạo đức, là văn minh, xứng đáng với niềm tin của
nhân dân, phải THDC trong Đảng. Người trù tính điều hệ trọng: phải dựa vào
dân mà xây dựng Đảng, phải THDC rộng rãi trong Đảng, phải nêu cao tính
tiền phong gương mẫu của Đảng và đảng viên nhất là đảng viên giữ cương vị
lãnh đạo.
2.1.2. THDC trong Đảng là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự
đoàn kết thống nhất trong Đảng
THDC là một nội dung quan trọng trong việc xây dựng Đảng, góp phần
làm cho Đảng ta trong sạch vững mạnh. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
căn dặn: “Trong Đảng THDC rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê
bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết thống
nhất của Đảng” [2, tr.611]. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo, tư tưởng của
Người về THDC trong Đảng, trong sinh hoạt của tổ chức Đảng là hết sức cần
thiết và có ý nghĩa rất quan trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi dân chủ là quyền lợi cơ bản nhất của người
đảng viên. Mọi đảng viên có quyền tự do thảo luận cách thi hành chính sách
của Đảng, trên các báo chí và trong các cuộc Hội nghị của Đảng. Đảng viên
có quyền tuyển cử và ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, có quyền
đưa ra đề nghị với các cơ quan của Đảng, từ chi bộ đến Trung ương, không ai
được quyền ngăn cản. Trong các cuộc Hội nghị của Đảng có quyền phê bình
đảng viên và cán bộ, phê bình công tác của các cơ quan Đảng. Vì quyền phê
bình ấy có thể nâng cao tính hăng hái và tinh thần phụ trách của đảng viên;
quyền phê bình là một vũ khí chống quan liêu, mệnh lệnh; nó cải thiện sự
quan hệ giữa cán bộ và đảng viên. Vì vậy, mọi người phải tôn trọng quyền
phê bình của đảng viên.
Không phải ngẫu nhiên mà trong Di chúc với tất cả sự nghiền ngẫm sâu xa,
Người khẳng định “Trước hết nói về Đảng - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một
dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành
lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu
tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Và “Đoàn kết là một truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi
bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình” [3, tr.611]. Đặc biệt, phải chống bằng được giặc nội xâm, đó là chủ nghĩa
cá nhân, quét sạch bằng được chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Theo Người, THDC càng triệt để bao nhiêu càng có sức mạnh chống tham nhũng
bấy nhiêu. Tức là phải dựa vào sức dân, ý chí sức mạnh của dân để chống tham
nhũng. Phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu tham nhũng thì
mới có thể bảo vệ được lợi ích chung của dân tộc và bảo vệ được lợi ích của người
dân. Trên con đường phát triển cách mạng Đảng ta cũng như mỗi đảng viên luôn
luôn có ưu điểm và không tránh khỏi có khuyết điểm. Chỉ có không ngừng đấu
tranh, phê bình và tự phê bình, nhận rõ đúng sai, phát huy cái đúng, khắc phục
cái sai mới có thể làm cho mình, cho Đảng, cho cách mạng tiến bộ mãi.
Người nhắc nhở, trong lúc thắng lợi, Đảng càng cần thấy rõ khuyết điểm
của mình và điều đó chứng tỏ bản chất cách mạng chân chính của Đảng. Người
nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của sự đoàn kết trong Đảng, nhất là đoàn
kết chặt chẽ giữa các đồng chí cán bộ lãnh đạo. Khối đoàn kết đó được xây
dựng trên cơ sở thống nhất về tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ. Đồng thời,
cần tiến hành tự phê bình và phê bình một cách rộng rãi, nhất là cần tổ chức
cho nhân dân phê bình cán bộ. Người chỉ dẫn: “Phải thực sự mở rộng dân chủ
trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng cách thật thà tự phê bình và thẳng thắn
phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên. Phải kiên quyết chống cái thói “cả vú
lấp miệng em” ngăn cản quần chúng phê bình. Một đảng viên ở địa vị càng
cao thì càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ”
[4, tr.454].
Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày THDC tự kiểm điểm, tự phê bình,
tự sửa chữa như mỗi ngày rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có
bệnh mà Đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng. Trong Bài nói tại phân hiệu II Trường
Nguyễn Ái Quốc, tháng 7/1955, Người nói: “Đảng phải rất mạnh, rất trong
sạch. Lấy đồng hồ làm thí dụ: Bộ máy đồng hồ phải chạy đều, muốn chạy đều
phải sạch sẽ. Đảng muốn trong sạch, mạnh mẽ thì mỗi bộ phận, mỗi đảng viên
phải trong sạch, mạnh mẽ” [5, tr.67].
2.1.3. THDC trong Đảng là điều kiện tiên quyết cho quá trình dân chủ
hóa đời sống xã hội
Dân chủ XHCN là mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng
tới, quyết tâm biến nó thành hiện thực. Theo Hồ Chí Minh, THDC trong Đảng
làm cho Đảng thống nhất về ý chí và hành động, có đường lối đúng, có tư
tưởng cách mạng triệt để, có tổ chức vững mạnh và đội ngũ đảng viên vững
vàng về chính trị, tư tưởng, giỏi chuyên môn, gắn bó chặt chẽ với quần chúng
để hoàn thành vai trò của mình. Người chỉ rõ, THDC trong Đảng, cần phải
chú ý tới hoạt động Đảng ở cơ sở, nhất là các chi bộ phải nâng cao năng lực
tổ chức thực tiễn, vì chi bộ là nơi trực tiếp biến đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước thành hiện thực.
Người yêu cầu mọi đảng viên của Đảng phải không ngừng nâng cao về
chính trị, tư tưởng, văn hóa, đạo đức, giữ vững vai trò tiên phong gương mẫu,
đảng viên phải thật sự là con người mới XHCN. Người yêu cầu: “Ngày nay tất cả
những người lao động - lao động chân tay và lao động trí óc đều phải nhận thức
rõ: Mình là người chủ nước nhà” [6, tr.52]. Và đã là người chủ, “Thì phải làm
trọn nghĩa vụ của người chủ. Nghĩa vụ đó là: Cần kiệm xây dựng nước nhà, xây
dựng CNXH nhằm mục đích không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động” [7, tr. 52]. Người cho rằng: “Nhân
dân ta đoàn kết nhất trí, mọi người hiểu rõ mình là người chủ nước nhà và quyết
tâm làm tròn nghĩa vụ người chủ thì khó khăn gì chúng ta cũng vượt qua được và
chúng ta nhất định sẽ giành thắng lợi nhiều hơn nữa, to lớn hơn nữa” [8, tr. 119].
Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân
chủ trong Đảng, đây là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội. Với
tư cách là Đảng chính trị duy nhất lãnh đạo toàn diện đối với xã hội, Đảng
Cộng sản Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng đối với thực trạng dân chủ
của đất nước. Dân chủ trong Đảng là tiền đề và điều kiện để có dân chủ trong
xã hội. Làm thế nào để cơ chế lãnh đạo của Đảng, các thiết chế hoạt động
trong Đảng và mọi sinh hoạt của Đảng thực sự đạt tới tiến trình dân chủ. Nếu
dân chủ trong Đảng còn hạn chế, khiếm khuyết thì dân chủ ngoài xã hội khó
tránh khỏi yếu kém, thậm chí bị cắt xén. Và hệ lụy cuối cùng của điều này là
hạn chế trình độ phát triển của đất nước. Đây là vấn đề khó và phức tạp cần
tiếp tục có những cuộc thảo luận và nghiên cứu sâu sắc. Việc phát huy dân
chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ
vững kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Trong bài viết Thực hành tiết kiệm,
chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu, tháng 3/1952, Người chỉ dẫn:
“Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, phải động viên quần chúng, phải
THDC, phải làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham
gia thì mới chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành
công càng đầy đủ, mau chóng”[9, tr .362].
Như vậy, trong mối quan hệ giữa thực hành với lý luận, theo Người, thực
hành sẽ làm gia tăng hiểu biết và góp phần phát triển lý luận. Vì vậy, cùng
với đề ra lý luận về dân chủ, Người cũng chú trọng tới THDC để Việt Nam
trở thành một nước dân chủ thực sự.
2.2. Định hướng nhận thức về vai trò thực hành dân chủ trong xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
Xây dựng Đảng phải gắn với ngăn chặn, đẩy lùi sựu suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện trong “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ và coi đây là một trong 6 nhiệm vụ trung tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII
(2016-2020). Tình hình trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên
nhân khách quan là do: “Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến
lược "diễn biến hòa bình", lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn
giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình;
cổ súy cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa” [10, tr 6]. Đây
là những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt nhằm thực hiện mưu đồ chính trị của thế lực
thù địch để chống phá Đảng và Nhà nước ta.
Nguyên nhân chủ quan, hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã
và đang diễn ra sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” dẫn đến tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu nhân dân,
trái với chuẩn mực đạo đức của người cộng sản “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư” làm cho nhân dân bất bình, lo lắng. Sự suy thoái này đã được Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XII) chỉ ra 27 nội dung cụ thể. Thực trạng đó, nếu không được ngăn
chặn, đẩy lùi sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, gây tổn
hại nghiêm trọng đến công tác xây dựng Đảng, đe dọa sự tồn vong của Đảng, chế
độ, sự ổn định và phát triển của đất nước. Vì vậy, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình, Đảng phải coi trọng công tác xây dựng Đảng và coi đó là việc trước tiên,
việc chính, việc cần kíp phải làm ngay. Từ đó, theo chúng tôi, Đảng cần nhận thức
đầy đủ về vai trò THDC trong Đảng như sau:
2.2.1. Đảng giữ vai trò tiên phong trong quá trình dân chủ hóa xã hội
Vai trò của Đảng ta đối với xã hội không phải tự nhiên mà có và không phải
cứ tự nhiên mà có được. Vai trò đó là kết quả tất yếu của cả quá trình phấn đấu
kiên cường, bền bỉ của Đảng cho nền độc lập của Tổ quốc, dân chủ và hạnh phúc
của nhân dân. Trong Những chỉ thị mà tôi nhớ và truyền đạt lại, Người chỉ dẫn:
“Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ
ra là bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu
tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng
đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo” [11,
tr. 168].
Vì vậy, Đảng ta không những là Đảng của giai cấp công nhân mà đồng thời còn
là Đảng của nhân dân và toàn dân tộc, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân và toàn dân tộc. Với mục tiêu của Đảng xây dựng xã hội XHCN “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, việc tạo ra của cải vật chất nhiều hơn
để cho dân giàu, nước mạnh thì một vấn đề không thể thiếu trong xã hội chính là dân
chủ hơn, người dân thực sự được làm chủ. Sự tập trung, tập quyền sẽ dần giảm bớt
và dân chủ phải được tăng lên là xu thế tất yếu trong các xã hội phát triển. Việt Nam
trên đường lên CNXH thì vấn đề dân chủ càng đặc biệt quan tâm. Mục tiêu là phấn
đấu cho mọi người dân được tự do, hạnh phúc hơn trong xã hội nên việc phát triển
dân chủ và làm cho dân chủ trở thành văn hóa của mọi người dân trong xã hội là vấn
đề có tính quy luật tất yếu. Không có dân chủ không có CNXH, chỉ có dân chủ thật
sự thì CNXH mới thành hiện thực.
2.2.2. Phát huy dân chủ trong Đảng
Đại hội XII của Đảng đã tìm được điểm mấu chốt để Đảng tiếp tục khẳng định
vai trò đối với đất nước là vấn đề THDC trong Đảng. Đó là: “Để thực hiện dân chủ
trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để
phát huy dân chủ trong xã hội” [12, tr.170]. Mở mở rộng dân chủ ngoài xã hội;
THDC thật sự trong Đảng. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, biết kế thừa những tinh hoa dân chủ của các Nhà
nước pháp quyền trong lịch sử và đã, đang phát triển lên tầm cao mới, khác hẳn về
bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản nhưng chưa tuyên truyền, giáo
dục cho người dân hiểu đúng về dân chủ đi liền với kỷ cương nên một số người đã
cố tình lợi dụng dân chủ để gây rối, chia rẽ làm tác động xấu đến trật tự, an toàn xã
hội.
Việc THDC trong nội bộ Đảng giữ vai trò rất quan trọng. Trong Đảng có thật
sự dân chủ mới có điều kiện mở rộng và phát huy dân chủ của nhân dân. Điều 3,
Điều lệ Đảng đã quy định rõ quyền của đảng viên, trong đó thể hiện cụ thể quyền
dân chủ của đảng viên. Do đó, cần xây dựng và ban hành Quy chế dân chủ trong
Đảng để có cơ sở thực hiện dân chủ trong thực tiễn. Quy chế chất vấn trong Đảng
hiện nay mới quy định chất vấn trong sinh hoạt cấp ủy, như vậy chủ thể, đối tượng
và phạm vi chất vấn rất hẹp, cần sửa đổi, bổ sung Quy chế này theo hướng mở rộng
chủ thể, đối tượng, phạm vi và hình thức chất vấn.
Trong điều kiện một Đảng lãnh đạo và Nhà nước lại do Đảng lãnh đạo thì Mặt
trận và các đoàn thể ngày càng có vai trò quan trọng. Hiện nay, việc phát huy vai
trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan
truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái, "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Trong
khi đó, tác dụng, hiệu quả hoạt động và ảnh hưởng xã hội của Mặt trận, đoàn thể
là một chỉ báo xã hội không thể thiếu để xem thực chất dân chủ trong xã hội. Mặt
khác, đó còn là một đảm bảo chính trị tối cần thiết để phòng ngừa sự thoái hóa
của tổ chức và cá nhân lãnh đạo, sự biến dạng của quyền lực nhân dân. Thừa nhận
giám sát xã hội, tư vấn, phản biện của các thiết chế chính trị - đó chính là sự thừa
nhận hoạt động tham chính có tổ chức của nhân dân, thừa nhận và đề cao khả
năng sáng tạo của nhân dân trong hoạt động chính trị, tạo ra một lực đẩy đối với
dân chủ, đồng thời đặt một vật cản đối với các biến dạng phản dân chủ. Tham gia
tư vấn, phản biện, giám sát xã hội của Mặt trận và đoàn thể đối với Đảng và Nhà
nước có cơ sở xã hội là quần chúng nhân dân; có cơ sở pháp lý là luật pháp và
Nhà nước pháp quyền; có cơ sở chính trị là quyền làm chủ của dân, dân phải có
ý thức bảo vệ quyền của mình, tham gia thực hiện quyền đó; có cơ sở đạo đức và
văn hóa ở chỗ, Đảng, Nhà nước phải lắng nghe tiếng nói, nguyện vọng, nhu cầu
của dân, biết đối thoại, tranh luận, tiếp xúc trực tiếp với dân, không thể lãnh đạo
được dân mà còn không học hỏi được dân như Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Để tư tưởng
này đi vào cuộc sống và được thực hiện phải đồng thời chú trọng tới những giải
pháp và điều kiện: (1) Đảng và Nhà nước với tư cách là chủ thể lãnh đạo, quản lý, đối
tượng tiếp thu tư vấn, phản biện, giám sát nên phải thực sự có nhu cầu được tư vấn,
phản biện, giám sát, không chiếu lệ, hình thức, không lấy mình làm chuẩn chân lý, sẵn
sàng tiếp thu ý kiến phê bình của dân, có tư duy đổi mới và quyết tâm đổi mới; (2) Cá
nhân và tổ chức phản biện, tư vấn, giám sát phải thực sự có năng lực và bản lĩnh, có
động cơ chính trị đúng, có trách nhiệm xã hội cao của người phát hiện, đề xuất,
khuyến nghị; - Dư luận xã hội tích cực, pháp luật, kỷ luật, đạo đức của xã hội được
nâng cao là sự đảm bảo cho hoạt động giám sát, kiểm tra, tư vấn và phản biện của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước có hiệu quả.
2.2.3. Đảng tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quy định về THDC trong Đảng
Khi chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng ta là Đảng cầm quyền” có nghĩa là
Người khẳng định bước ngoặt vĩ đại đánh dấu sự chuyển biến về chất trong vị thế
của Đảng đối với xã hội, đồng thời là bước ngoặt đổi mới nội dung, phương thức
lãnh đạo và xác định trách nhiệm của Đảng trước nhân dân, Tổ quốc, dân tộc trong
điều kiện mới; Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân
dân trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ chế độ dân chủ mới - dân chủ XHCN. Tiếp
tục nghiên cứu về lý luận và thực tiễn về phương thức cầm quyền để làm rõ trong
điều kiện một đảng cộng sản duy nhất lãnh đạo, không đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập mà vẫn phát huy được dân chủ thực sự đối với nhân dân mà vẫn giữ vững
được sự lãnh đạo của Đảng, Đảng trong sạch, vững mạnh, đồng thời đảng viên không
rơi vào tình trạng suy thoái, biến chất, xa rời quần chúng.
Vấn đề xây dựng Đảng luôn luôn cũ và cũng luôn luôn mới, bởi học thuyết
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là lý luận mở, nghĩa là luôn được nạp năng lượng
mới từ cuộc sống, nhất là trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn đất nước vận hành theo
cơ chế thị trường định hướng XHCN, mở cửa, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Song
để phát triển chế độ dân chủ ở nước ta, phải đưa THDC trong Đảng trở thành đặc
tính vốn có vượt trội của Đảng, nhờ đó Đảng tồn tại và qua đó phân biệt với các tổ
chức chính trị khác. Bởi vậy, trên phương diện tổ chức, Đảng phải tiếp tục bổ sung,
hoàn thiện và công khai hóa các quy định về THDC trong Đảng và để làm tốt điều
này phải thực hiện một số nội dung sau:
- Xây dựng Quy chế dân chủ trong Đảng. Mặc dù đã có Điều lệ Đảng nhưng
Điều lệ Đảng không bao quát hết được nội dung dân chủ trong Đảng. Xây dựng và
hoàn thiện những cơ chế bảo đảm dân chủ trong Đảng và ngoài xã hội như cơ chế
kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với Đảng; thể chế hóa quyền và trách nhiệm của
Đảng trong xã hội; thể chế hóa quan hệ giữa Đảng và các thiết chế chính trị - xã hội.
- Thảo luận công khai, toàn diện những vấn đề có tính chất cơ bản, về nguyên
tắc và sách lược. Từ đó, các vấn đề lý luận phải luôn được kiểm nghiệm trong thực
tiễn, sẵn sàng nghe ý kiến của đảng viên và nhân dân để sửa đổi những điều không
xác đáng, bổ sung những điều cần thiết. Tranh luận thẳng thắn những vấn đề đặt ra
trên các diễn đàn của Đảng.
- Tiếp tục thực hiện tốt Quy định của Bộ Chính trị khóa XI, ngày 25/4/2015,
“Về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trong các cơ quan đảng, nhà nước”
nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân được tự do sáng tạo, độc
lập suy nghĩ, kiến nghị, được tôn trọng, tiếp thu ý kiến, vận dụng, sử dụng kết quả
nghiên cứu trong các hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị, phù hợp với pháp luật
hiện hành.
- Chú trọng xây dựng, phát triển đội ngũ đảng viên lý luận, nhất là đảng viên
có kiến thức chuyên sâu về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chuyên
gia đầu ngành, nâng cao trình độ, năng lực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của
cán bộ. Chất lượng và hiệu quả công tác lý luận, bảo vệ, vận dụng, phát triển chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ đảng viên
làm công tác lý luận.
Hiện nay, đội ngũ đảng viên làm công tác lý luận của chúng ta đông nhưng
không mạnh, tiềm lực lý luận mỏng, ít có chuyên gia đầu ngành. Vì vậy, Đảng cần
quan tâm nhiều hơn đến xây dựng, phát triển đội ngũ này cả về quan điểm, nhận
thức, bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức, có chính sách khuyến khích, đãi ngộ
thích đáng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần, điều kiện và môi trường làm việc
thuận lợi cho các nhà khoa học, hướng họ đi sâu vào chuyên môn, trở thành những
chuyên gia giỏi. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ lý luận từ khâu quy hoạch đến
xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp; ưu tiên tuyển chọn những sinh viên
tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, giỏi đưa đi đào tạo về lý luận chuyên sâu cho các
bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương hướng lâu dài là phải hình thành, phát triển đội ngũ đảng viên làm
công tác lý luận, trong đó có nhiều chuyên gia giỏi, nhà khoa học đầu ngành, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ lý luận cao, giàu khả năng tư duy sáng tạo, am
hiểu tình hình thế giới và trong nước, có năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn;
quan tâm xây dựng đội ngũ đảng viên kế cận để chuẩn bị tiềm lực cho sự phát triển
lâu dài trong tương lai.
3. Kết luận
Như vậy, lịch sử văn minh nhân loại là quá trình nhận thức và đấu tranh để
hiện thực hóa dân chủ trong đời sống xã hội. Có thể nói, dân chủ với nghĩa chính là
quyền thuộc về nhân dân mãi luôn là giá trị cao quý mà loài người hướng đến. Đặc
biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn cứ vào thực tiễn và đặc thù văn hóa Việt Nam, không
chỉ nêu lên những vấn đề lý luận, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn
đề THDC đã được triển khai sâu rộng và đã trở thành động lực quan trọng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Không chỉ đối với cách mạng giải phóng dân tộc, mà ngày nay,
trong công cuộc xây dựng CNXH với những biến đổi mạnh mẽ của tình hình thế
giới và trong nước, việc THDC trong Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là vấn đề mang
tính chiến lược của mỗi quốc gia. Do đó, kế thừa tư tưởng của Người trong giai đoạn
hiện nay, ở nước ta, THDC trong Đảng phải hướng tới mục tiêu xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ XHCN; gắn với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc theo định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
______________
Tài liệu tham khảo
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập (tập 6), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
2, 3. Hồ Chí Minh, Toàn tập (tập 15), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập (tập 8), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập (tập 9), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
6,7,8. Hồ Chí Minh, Toàn tập (tập 13), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
9. Hồ Chí Minh, Toàn tập (tập 7), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016.
11. Hồ Chí Minh, Toàn tập (tập 3), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
12. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII), NXB Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2017